Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2020

Chủ đề tình yêu: Siêu hình tình yêu: Tình yêu là ham muốn chủng loại (Phần 3 - trích Métaphysique de l'amour)

Các cuộc hôn nhân ái tình đều được kết thúc vì quyền lợi của chủng loại, không phải vì quyền lợi của các cá nhân. Đành rằng các được sự tự dối mình với cá ảo ảnh rằng mình hành động cho hạnh phúc của riêng mình, nhưng chính cái cứu cánh thực sự của họ cũng xa lạ đối với chính họ, vì cứu cánh đó là cấu sinh một cá nhân chỉ có thể cấu sinh được do họ mà thôi. Vì thế họ phải làm sao cho được ý hợp tâm đầu hết sức, một khi cái mục đích ấy đã ràng buộc họ với nhau. Nhưng thường thì các cặp được sắp xếp do cái ảo tưởng bản năng kia vốn dĩ là yếu tính của tình yêu say đắm, lại mang một tính chất bất đồng nhất. Sự bất đồng lại càng bộc lộ khi ảo tưởng tiêu tan, một điều không sao tránh khỏi.

Vì vậy mà các cuộc phối hợp vì tình thường có một chung cục không tốt đẹp; vì chúng lo cho thế hệ hiện sống mà lơ là với thế hệ tương lai. Quien se casa por amores, ha de vivir con dolores (Kẻ nào lấy vì yêu, kẻ đó sẽ sống trong đau khổ), một câu phương ngôn Tây Ban Nha nói. Ngược lại là các cuộc hôn nhân môn đăng hộ đối, thường được cấu kết theo sự lựa chọn của cha mẹ. Các điều nhận xét trong trường hợp này, dù có tính chất gì đi chăng nữa, ít ra cũng thực tế và không thể tự chúng tiêu tán được. Chúng chú trọng vào hạnh phúc của các cá nhân hiện hữu, đành rằng bất lợi cho những kẻ đến sau; và cái hạnh phúc kia dù sao cũng chưa có gì làm chắc. Người khi lấy vợ, nghĩ đến tiền hơn là thỏa mãn xu hướng của mình, người đó sống như một cá nhân hơn là một phần tử của chủng loại; nhưng như thế là trái với chân lý, nên có vẻ như trái với thiên nhiên và do đó không khỏi bị người khinh khi. Một thiếu nữ, cưỡng lại ý kiến cha mẹ, từ chối lời cầu hôn của một người giàu có và còn trẻ, gạt bỏ sang một bên mọi nhận xét đăng đối và nhất nhất lựa chọn theo xu hướng bản năng của mình, thiếu nữ đó hy sinh cái lợi cá nhân cho cái lợi chủng loại. Nhưng chính vì thế mà người ta không thể không tán thành cô ta; vì cô ta thích cái thiết yếu hơn và đã hành động theo tinh thần thiên nhiên (đúng ra là tinh thần chủng loại), trong khi lời khuyên của cha mẹ đi theo chiều vị kỷ cá nhân.

Xem thế thì hình như, trong một cuộc hôn nhân hoặc là cá nhân, hoặc là quyền lợi chủng loại, phải một đằng bị thiệt. Thường thì như vậy hơn; vì muốn cả đăng đối cả tình yêu cùng đi song song thì quả thật là một sự may mắn hy hữu. Sở dĩ bản chất của đa số nhân loại thật tồi tệ về phương diện thể chất cũng như đạo đức và trí tuệ cũng phần vì người ta lấy nhau, chẳng phải vì lựa chọn và tình yêu không thôi, mà còn theo đủ thứ yếu tố ngoại lai, và trường hợp ngẫu nhiên này khác. Nếu trái lại người ta quan tâm phần nào đến tình yêu thêm vào đăng đối, âu đó cũng là một bổ sung cho tinh thần chủng loại. Ai cũng biết các cuộc hôn nhân hạnh phúc rất hiếm; chính vì yếu tính của hôn nhân là cứu cánh, tối thượng của nó chẳng phải là thế hệ hiện tại, mà là thế hệ tương lai. Tuy nhiên, để an ủi những tâm hồn âu yếm yêu đương, ta cần nói thêm rằng đôi khi đi đôi với tình yêu nhục dục đắm đuối còn có một tình cảm mang một nguồn gốc khác hẳn, một tình bạn thực sự xây dựng trên sự hòa hợp giữa hai đầu óc; tuy nhiên thường khi tình cảm ấy chỉ biểu hiện khi ái tình đích danh đã tắt vì đã phỉ nguyện. Thường thì nó nảy sinh khi các đặc tính bổ khuyết và tương đối của hai cá nhân, dù là đặc tính thể chất, tinh thần hay trí tuệ, vốn dĩ khiến ái tình nảy nở, để tạo ra cá thể phải cấu sinh, lại bổ khuyết được nhau về tính tình cũng như trí tuệ và do đó giúp cho hai tâm hồn hòa hợp.

Toàn thể siêu hình tình yêu được trình bày ở đây triệt để phù hợp với siêu hình của tôi nói chung, và ta có thể tóm tắt như sau những điều nó giúp là sáng tỏ thêm thuyết siêu hình của tôi:

Ta thấy rằng sự tuyển lựa thận trọng trong việc tìm thỏa mãn dục tính, sự tuyển lựa nó lần lần bước lên hàng vô số cấp bực cho đến cái mức độ của tình yêu say đắm, dựa vào mối quan tâm tỉ mỉ của con người đến sự cấu tạo đặc biệt của cá nhân thế hệ tương lai. Và mối quan tâm tha thiết này xác nhận hai chân lý từng được trình bày trong các chương trước:

1 - Tính chất bất diệt của bản thể tự tại của con người, nó tồn tại trong cái thế hệ tương lai kia. Vì mối quan tâm rất hăng hái và nhiệt thành kia, phát sinh không phải do sự suy tư và cố ý, mà do khát vọng và do xu hướng sâu kín nhất của bản thể ta, đã không thể lại bất diệt đến thế và có một quyền lực mạnh mẽ đến thế đối với con người, nếu như con người lại tuyệt đối khả diệt và một thế hệ thực sự và hoàn toàn khác hẳn nó chỉ có việc theo nó trong thời gian.

2 - Rằng bản thể tự tại của con người nằm trong chủng loại hơn là trong cá nhân. Vì mối quan tâm đến bản chất đặc biệt của chủng loại kia, nó là nguồn gốc của mọi cuộc tình duyên, từ cái yêu thoáng cho đến mối tình say đắm nhất, quả thật đối với từng người đều là chuyện quan trọng nhất, nghĩa là chuyện mà thành hay bại đều làm người ta xúc động nhất; nên người ta thích gọi đó là những chuyện tâm tình: mọi quyền lợi liên quan đến con người duy nhất nào đó đều được đặt sau quyền lợi của chủng loại, một khi đã biểu lộ mãnh liệt và cương quyết, và nếu cần, phải được hi sinh cho quyền lợi chủng loại. Như thế, con người chứng tỏ rằng nó coi trọng chủng loại hơn là cá nhân, và nó sống gần chủng loại hơn là cá nhân.

Vậy thì tại sao kẻ si tình lại cứ luẩn quẩn hoàn toàn quy lụy trước mắt người mình yêu, sẵn sàng hy sinh mọi cái? Vì chính cái phần bất diệt của bản thể hắn mới tha thiết khao khát cô ta, còn lại chỉ là phần tất diệt. Cái khát vọng mãnh liệt và ngay cả thành khẩn kia nhắm vào một người đàn bà nhất định do đó là một đảm bảo tức thời cho tính chất bất diệt của yếu tính của bản thể chúng ta và cho sự tồn tại của nó trong chủng loại. Nhưng nếu vậy thì khi coi sự tồn tại đó là một cái không đáng kể và tầm thường tất là một điều nhầm lẫn; sở dĩ có sự nhầm lẫn này là vì, nói đến sự tồn tại của chủng loại, người ta chỉ biết liên tưởng đến sự hiện hữu tương lai của những con người giống nhau, nhưng không đồng nhất với chúng ta; và quan niệm này tự nó lại phát sinh ở điều là, khởi đi từ một kiến thức hướng về các ngoại vật, người ta chỉ quan tâm đến hình thức bên ngoài của chủng loại như ta ý thức bằng trực giác, chứ không quan tâm đến bản thể nội tại của nó.

Nhưng chính cái bản tính nội tại ấy mới là cái căn bản, là trung tâm của ý thức của chính chúng ta; do đó nó còn trực tiếp hơn là ý thức, và, vì là vật tự tại, nó không lệ thuộc vào nguyên lý cá nhân. Cái bản tính này thật ra ở mọi cá nhân đều có như nhau, dù họ sống đồng thời hay kế tiếp nhau. Và nó chính là cái ý chí sống, tức là cái gì đòi hỏi rất ư khẩn thiết sự sống và sự sống còn. Cái ý chí ấy được miễn chết; cái chết không động đến nó. Nhưng đồng thời, nó cũng không thể đạt đến một trạng thái tốt đẹp hơn là trạng thái hiện tại của nó; nên cái chời đợi nó với sự sống muôn đời vẫn là sự đau khổ và cái chết dành cho các cá nhân. Chỉ có sự phủ nhận cái muốn sống mới giải thoát nó khỏi đau khổ và chết; có phủ nhận cái muốn sống, ý chí cá nhân mới dứt mình ra khỏi cái gốc chủng loại và từ bỏ mọi hiện hữu trong chủng loại. Muốn hiểu lúc đó nó là gì, ta không đủ sức hiểu, và cũng thiếu hết các dữ kiện liên quan đến nó. Chúng ta chỉ có thể mệnh danh nó như một cái gì có tự do sống hay không có ý chí sống. Trong trường hợp sau, Phật giáo dùng danh từ Niết bàn. Đây là điểm mà kiến thức của con người không tài nào hiểu nổi.

Nếu giờ đây (theo cái viễn tưởng của các ý nghĩ cuối này), ta nhìn sâu vào cái náo nhiệt của đời sống, ta thấy mọi con người bị giày vò bởi những đau khổ lo âu của kiếp sống này, ra sức thỏa mãn các nhu cầu vô tận và chống lại muôn điều khổ não, để không mong mỏi gì hơn là bảo tồn cái kiếp sống cá nhân quằn quại trong một thời gian ngắn ngủi. Thế mà giữa cảnh hỗn loạn ấy, ta bắt gặp bốn mắt giao nhau đầy thèm muốn của đôi nhân tình. Nhưng tại sao lại phải nhìn trộm, sợ sệt, lén lút? Bởi vì đôi nhân tình kia là những kẻ phản bội thầm lén tìm cách lưu tồn tất cả cái khốn khổ, tất cả các phiền não kia nếu không có họ tất phải chấm dứt; họ muốn ngăn cản không cho chúng dứt; cũng như các kẻ giống họ từng làm trước họ. Vấn đề này có lẽ sẽ được đề cập vào chủ đề khác.


Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2020

Notification!

Tôi có ý tưởng sẽ tạo một website về chính trị, luật học, nghệ thuật chiến tranh, tôi sẽ tìm hiểu thêm về kinh tế trong thời gian tới. 
Có lẽ lúc mà tôi đạt... cỡ 200-300 bài đăng ở đây thì tôi sẽ công khai websites đó.
Lý do đơn giản là vì, nếu bạn chưa đọc qua những bài ở đây e là sẽ khó mà hiểu thấu đáo những tư tưởng chính trị và nghệ thuật chiến tranh - kinh tế đó.
Và thực ra, tôi cũng không mong muốn có ai đó chưa hiểu những tiền đề mà đi vào đọc tư tưởng của tôi, lẫn những học thuyết, luận cương của các vị tiền bối.
Tôi không mong muốn sự hiểu sai, hiểu nhầm. Một là bỏ qua, hai là đọc và suy nghĩ, đơn giản phải không?
Mà cũng cần phải nói luôn, thực ra tôi chưa biết sắp xếp các ý tưởng để tranh luận hay thảo luận với mọi người, vậy nên nếu được hãy cho ý kiến về những chủ đề sắp tới.
Trân trọng cảm ơn,
Sir Charles.

Chủ đề tình yêu: Siêu hình tình yêu: Tình yêu là ham muốn chủng loại (Phần 2 - trích Métaphysique de I’amour)

Tình cảm của một chàng si thường gây ra trò cười, đôi khi bi đát, trong cả hai trường hợp cũng vì tinh thần chủng loại xâm chiếm hắn, chế ngự hắn và ngăn cản khiến hắn không còn tự thuộc mình nữa; vì thế mà hành động của hắn không còn thích ứng với cá tính của hắn. Trên các cao độ của tình ái, tư tưởng của con người ta khoác một bộ mặt nên thơ và cao cả, và còn có cả chiều hướng siêu việt và siêu vật, nhờ đó con người ta hầu như quên hẳn mục đích thực sự của mình, một mục đích rất ư vật chất; chính ra lúc này, thâm tâm hắn đang bị chi phối do tinh thần chủng loại mà các mục tiêu còn vô cùng quan trọng hơn tất cả các mục tiêu chỉ liên quan đến các cá nhân mà thôi; nhân danh tinh thần chủng loại, con người có nhiệm vụ xây dựng sinh tồn cho cả một dòng dõi dài vô tận, mang cái bản chất được quy định rõ ràng mà nó chỉ có thể tiếp thụ ở người đàn ông đó là cha, và ở người đàn và mà người đàn ông đó yêu quý là mẹ, và nếu không thế thì không bao giờ nó lại sinh ra được ở cái đời mà cá thể hóa của ý chí đòi hỏi.

Cái cảm thức hành động theo các mục đích có một tầm siêu việt như thế là cái nâng cao kẻ si tình lên đến mức vượt lên trên tất cả những gì là thế tục và vượt ra khỏi cả chính hắn, và khoác một bộ áo hết sức siêu tế của những dục vọng rất vật chất, khiến tình yêu trở thành một chuyện nên thơ ngay cả trong đời sống tầm thường nhất của con người; trong trường hợp này, câu chuyện đôi khi thành hài hước. Cái mệnh lệnh này của ý chí khách thể hóa ở chủng loại hiện ra trong ý thức của kẻ si tình dưới cái mặt nạ dự liệu một hạnh phúc vô biên, mà hắn sẽ được gặp trong sự phối hợp với người đàn bà riêng biệt nào đó. Ở vào những mức độ cao nhất của tình yêu, cái ảo tưởng này trở thành diễm lệ đến nỗi nếu ta không được đến gần nó, thì ngay cả đời sống cũng mất hết thú vị và từ đó trở đi hầu như trống rỗng quá, ảm đạm quá, vô vị quá, khiến ta chán ngấy đến coi thường cả cái chết; lúc đó người ta đòi tự ý hủy bỏ đời mình.

Cái ý chí của một kẻ si tình khi đến thế đã bị lôi cuốn vào vòng nước xoáy của ý chí chủng loại, hoặc là ý chí chủng loại đã chế ngự ý chí cá nhân đến mức, khi đã không làm lợi được gì cho chủng loại thì ý chí cá nhân cũng không còn buồn làm lợi gì cho mình nữa. Trong trường hợp này, cá nhân là một cái chậu mong manh quá nên không chứa nổi cái khát vọng vô biên của ý chí nhân loại tập trung vào một đối tượng chính xác. Vì thế mà giải pháp là tự sát, đôi khi cả đôi nhân tình cùng tự sát; trừ phi để cứu mạng, thiên nhiên lại khiến người ta điên, dùng tấm màn điên để bao phủ ý thức kẻ tuyệt vọng. Không năm nào lại không xảy ra rất nhiều vụ tương tự, xác nhận cho những gì tôi vừa nói là thật.

Nhưng không phải chỉ có tình yêu tha thiết bị cản trở mới đôi khi đi tìm một giải pháp bi đát; ngay cả tình yêu thỏa mãn thường cũng đưa đến tai họa thay vì hạnh phúc. Vì các sự đời hỏi của nó thường xung đột với hạnh phúc riêng tư của đương sự làm hắn hao mòn; thật vậy, các đòi hỏi ấy xung khắc với các điều kiện khác của đời sống hắn và hủy diệt nếp sống xây dựng trên các điều kiện này. Vả lại tình yêu không những xung khắc với hoàn cảnh bên ngoài, mà còn xung khắc với cá tính riêng tư, ở chỗ nó bám lấy những người mà, ngoài sự giao cấu ra, kẻ si tình chỉ còn thấy đáng ghét, đáng khinh, nếu không phải là ghê tởm. Nhưng ý chí chủng loại mạnh hơn ý chí cá nhân quá nhiều đến nỗi kẻ si tình nhắm mắt trước mọi đặc tính làm hắn ghê tởm, để hắn không còn thấy gì, để quên hết, để suốt đời bám lấy vật si mê của mình; cái ảo tưởng ấy làm mù quáng hắn đến chừng nào, và chỉ biến mất ngay khi khát vọng của chủng loại được thỏa mãn, nhưng vẫn để lại một người bạn đời mà mình thù ghét. Chỉ có điều này mới giải thích được tại sao ta thường thấy có những người rất biết điều, lỗi lạc là khác, lại lấy những quỷ sứ bà chằng, khiến ta không hiểu tại sao họ lại đi chọn những người vợ như vậy. Nên người xưa thường mô tả ái tình như là mù quáng. Hơn thế: một kẻ si tình còn có thể thấy rõ và khổ sở ê chề với các nết xấu không sao chịu nổi về tính khí cũng như tính tình của vị hôn thê của mình mà vẫn không ớn:

I ask not, I care not,

If guilt’s in thy heart;

I know that I love thee,

Whalever thou art

(Anh chẳng hỏi, anh chẳng cần,

Có gì xấu trong lòng em;

Anh chỉ biết anh yêu em,

Dù em là gì đi nữa.)

Vì xét cho cùng hắn đâu có tìm cái hay cho mình, mà tìm cho một đệ tam nhân, còn được cấu sinh, mặc dù cái ảo tưởng bao lấy hắn khiến hắn tưởng mình chỉ có tìm hạnh phúc cho mình. Nhưng cứ cái điều không theo đuổi hạnh phúc cho riêng mình cũng đã phết cho tình yêu say đắm cái nước sơn cao cả làm nó thành một đối tượng đáng được thi ca tán tụng. Sau hết, tình yêu còn chịu đựng được cả với cái thù tột độ đối với đối tượng của nó; vì thế cho nên Platon đã từng so sánh nó như tình yêu chó sói đối với cừu cái. Thật vậy, đó là điều xảy ra khi một kẻ si mê không được toại nguyện vì một điều kiện nào đó, bất chấp mọi nỗ lực, mọi van lơn của hắn.

I love and hate her

(Tôi yêu nàng và tôi ghét nàng)

Cái thù ghét người yêu, lúc đó bốc cháy, đôi khi đi xa đến mức hắn giết nàng rồi tự xử lấy mình. Hàng năm thường xảy ra nhiều vụ như thế; cứ xem báo thì biết. Nên lời thơ sau đây của Goethe rất đúng:

Bei aller verschmaehten Liebe!

Beim hoellischen Elemente!

Ich wollt’ ich wusst’ was aerger’s, dass ich fluchen koennte

(Bị mọi tình yêu khinh bỉ, bị cái yếu tố độc địa!

Tôi muốn biết cái gì kinh khủng hơn thế nữa, để nói lên niềm bất hạnh của tôi!)

Quả thật người ta không thể bảo là khoa đại, khi một kẻ si tình gọi là độc ác cái thái độ lạnh lung và kiêu hãnh của người mình yêu đang tâm lấy nỗi đau khổ của mình làm trò đùa. Vì hắn bị đặt dưới sự chế ngự của một nhu cầu tương tự như bản năng của côn trùng, buộc hắn phải theo đuổi mục đích, bất chấp mọi lý luận của lý trí và gạt bỏ mọi cái ra sau; hắn không tài nào trốn thoát. Đâu phải chỉ có một, mà vô số Pétrarque, suốt đời lê lết, như đeo một xích sắt, một quả tạ ở chân, một mối tình si không thỏa mãn, thở vắn than dài trong các cánh rừng hoang vu; nhưng chỉ Pétrarque mới có hồn thơ, khiến ta có thể áp dụng cho hắn lời thơ diễm lệ này của Goethe:

Und wenn der Mensch in seiner Qual verstummt,

Gab mir ein Gott, zu sagen, wie ich leide.

(Và khi mà con người, trong đau khổ, không nói lên lời

Thì đã có một vị thần nói lên những gì tôi chịu đựng).

Thật ra, tinh thần chủng loại không ngừng chiến đấu chống lại các thần bảo vệ các cá nhân, là kẻ hành hạ họ, là kẻ thù của họ, lúc nào cũng sẵn sàng thẳng tay tiêu diệt hạnh phúc riêng tư để đạt được các cứu cánh của mình; ngay cả sự an lạc của hàng bao nhiêu quốc gia cũng từng là nhạn nhân của các trái chứng của nó: Shakespeare từng cho ta một tỉ dụ về loại này trong vở Henri IV, phần III, hồi 3, các cảnh 2 và 3. Tất cả những gì xảy ra cũng chỉ vì cái chủng loại mà trong đó bản thân ta đóng rễ đối với ta có một quyền hành mật thiết hơn, lâu đời hơn là cá nhân và do đó các quyền lợi của nó tất cũng hơn.

Chính vì trực giác được chân lý này mà cổ nhân đã nhân cách hóa tinh thần chủng loại dưới hình thức thần ái tình, một thứ thần diện mạo ấu trĩ, mà lại nham hiểm, ác độc, và chính vì thế mà ai ai cũng phỉ nhổ, thứ quỷ bất nhất, chuyên chế, tuy nhiên lại làm chủ các thần cũng như loài người.

Tu, deorum hominumque tyranne, Amor!

(Hỡi ái tình, thống trị các thần cũng như loài người!)

Một vũ khí giết người, đôi mắt mù lòa và đôi cánh, đó là những biểu hiện của nó. Đôi cánh tượng trưng cho bất nhất, thường thì chỉ xuất hiện với sự thất vọng, con đẻ của khoái lạc.

Thật vậy, vì tình yêu dựa vào cái ảo tưởng nó làm lóng lánh những gì chỉ có giá trị cho chủng loại như một của quý cho cá nhân, nên một khi mục đích đã đạt thì ảo ảnh cũng tiêu tan. Tinh thần chủng loại xâm chiếm cá nhân lúc đó cũng trả lại tự do cho cá nhân. Bị ruồng bỏ, cá nhân lại rơi lại trong các giới hạn và trong sự nghèo nàn cổ sơ của hắn, và lấy làm lạ rằng sau bao nhiêu nỗ lực cao đẹp như thế, anh hùng như thế, phi thường như thế, rút cuộc hắn chỉ còn được hưởng cái gì của một cái thú nhục dục; trái với sự mong mỏi, hắn thấy mình cũng chẳng sung sướng gì hơn trước. Hắn nhận thấy mình đã bị cái ý chí của chủng loại lừa bịp; vì thế cho nên một Thésée khi đã chán chường tất rời bỏ nàng Ariane của mình. Nếu tình yêu của Pétrarque lại được thỏa mãn, thì ngày từ phút đó hắn cũng ngưng tiếng hát, cũng như chim hót khi trứng vừa đẻ xong.

Ở đây, thiết tưởng cũng nên nói qua rằng luận điệu siêu hình tình yêu của tôi hẳn làm phật ý những kẻ không mắc lưới tình yêu, cái chân lý căn bản mà tôi nói ra đáng lẽ phải hơn bất cứ mọi cái gì khác,  giúp họ có khả năng chế ngự mọi tình yêu, miễn sao những nhận xét lý trí có một quyền lực gì đối với một tình yêu. Tuy nhiên người ta chắc hẳn lại dựa vào lời nói của nhà hài hước Latinh: “Quae res in se neque consilium, neque modum haber ullum, eam consilio regere non potes.” (Đó là một cái tự nó chả biết gì là khôn ngoan, là chừng mực; ta không thể dùng khôn ngoan mà trị nó được).




Thứ Năm, 30 tháng 7, 2020

Chủ đề vũ trụ: Các bậc của nền văn minh thang Kardashev

Hôm nay tôi sẽ đi đến các bậc văn minh theo thang của Kardashev, tôi sẽ đưa ra nhận xét ở sau cùng, ngồi cho chắc, bật nhạc lên và chúng ta cùng chu du khắp giải ngân hà, cùng với trí tưởng tượng.

Chủ đề hôm nay, như đã đề cập, các loại văn minh dựa theo thang của Kardashev.

Vào năm 1963, nhà thiên văn học người Nga Nikolai S. Kardashev đã đưa ra một cách giả thuyết để trả lời cho những câu hỏi trên. Ông đã tạo ra một thước đo cho văn minh nhân loại, được biết đến với cái tên "Kardashev Scale". Đây là một phương pháp phân định độ tiên tiến của một nền văn minh dựa vào mức độ năng lượng mà hành tinh đó có thể khai thác.

Kardashev đã từng khẳng định lý thuyết của mình trong một bài báo về phương pháp truyền đạt thông tin của những hành tinh khác trái đất. Đây là một trong những công trình có ảnh hưởng đến giới khoa học bấy giờ, góp phần tạo nên tên tuổi của ông. Ông phát triển lý thuyết của mình từ khả năng (người ngoài hành tinh!?) truyền các tín hiệu vô tuyến qua vũ trụ để trao đổi thông tin. Theo Kardashev, có 3 loại văn minh vũ trụ. Giả thiết này hiện đã được phát triển thêm bởi các nhà khoa học hậu bối, mở rộng không chỉ ở khía cạnh công nghệ truyền tín hiệu, mà còn thêm những yếu tố khác.

Bậc thang thứ nhất

Một nền văn minh loại 1 là nền văn minh có khả năng khai thác toàn bộ năng lượng của hành tinh "Mẹ", tức là chính hành tinh quê hương. Đều này đồng nghĩa với khả năng sử dụng và điều khiển tất cả năng lượng có sẵn như năng lượng mặt trời và năng lượng sản xuất được như nhiệt, thủy điện, gió... Đây chính là mức độ mà trái đất chúng ta đang "phấn đấu" lao tới. Nếu thang Kardashev có mức độ thấp hơn mức độ 1, thì chúng ta đang ở ngưỡng 0.72! 0,72 cho một hành tinh có năng lượng hạt nhân, có smartphone, hệ thống vệ tinh và số lần bay ra vào vũ trụ như cơm bữa. Quả thực là trình độ của con người vẫn rất là khiêm tốn, ấy vậy mà không ít người trong số chúng ta nghĩ chúng ta đang ở "tuyệt đỉnh thông minh", "tuyệt đỉnh khoa học kỹ thuật".

Nhà vật lý Michio Kaku nghĩ rằng một nền văn minh cấp độ 1 sẽ có khả năng kiểm soát những động đất, thời tiết, núi lửa. Thậm chí dân số sống trong những thành phố dưới đáy biển sẽ còn đông hơn trên mặt đất. Theo giả thiết này thì con số 0.72 mà chúng ta đang đứng còn... xa xôi nữa. Theo tính toán của Kaku, khoảng cách để trái đất có thể đạt đến mức độ 1 sẽ "chỉ" là 100-200 năm nữa. Khi đó thì tôi và bạn có lẽ đều đã xanh cỏ rồi. (buồn bã)

Bậc thang thứ hai

Điều gì đứng đợi sau cấp độ 1? Một khi sử dụng những nguồn năng lượng trên trái đất (và điều khiển hoàn toàn thiên nhiên) thành công, năng lượng từ những hành tinh bạn sẽ là đích đến của một nền văn minh cấp độ 2. Tấm bằng chứng nhận cấp độ 2 sẽ được trao khi hành tinh cấp độ 1 "hút trọn" năng lượng của một ngôi sao xấu số nào đó để nuôi thân. Cái này thì bạn có thể hình dung thông qua những bộ phim viễn tưởng, vào năm 2300-2500 gì đấy.

Cấu trúc Dyson Sphere

Đây chính là thứ vũ khí tối thượng để "hút trọn" năng lượng của một ngôi sao. Dyson Sphere là một siêu vũ trụ được xây dựng bao quanh một ngôi sao, ngày ngày chiếm đoạt năng lượng của nó, sau đó số chiến lợi phẩm này ngược về để nuôi hành tinh mẹ.

Cấu trúc khổng lồ này được xây dựng trên một công nghệ siêu hiện đại, bao phủ một diện tích lớn hơn 600 triệu lần so với diện tích bề mặt trái đất, đây là ý tưởng của nhà vật lý học và nhà toán học Freeman Dyson vào năm 1960. Tất nhiên, Dyson Sphere sẽ để lại những ngôi sao "chết", tức những ngôi sao hết năng lượng, viễn cảnh này đã được tiên đoán trước trong bộ phim ăn khách Star Wars. Vậy trái đất còn cách kỉ nguyên của cấu trúc Dyson Sphere bao xa? Câu trả lời (dữ liệu dự đoán) là khoảng 1000-2000 năm. Thôi, đến khi đó tôi và bạn 1 hạt bụi cũng không còn.

Bậc thang thứ ba

Một nền văn minh loại 3 lại là một trật tự tiến hóa khác. Khoảng cách từ cấp độ 2 đến cấp độ 3 có thể lên tới con số ​​100.000 năm hoặc thậm chí là lâu hơn nữa. Các hành tinh cấp độ 3 được Kardashev nhìn nhận như "một nền văn minh sở hữu năng lượng của một hệ ngân hà". Nó làm tôi liên tưởng tới chủng tộc Protoss trong loạt game Starcarft, một chủng tộc tâm linh hiện đại.

Một hành tinh sẽ được "trao bằng" cấp độ 3 khi có trong tay năng lượng của khoảng 100 triệu ngôi sao – tức 1 ngân hà. Đạt đến cảnh giới này, con người sẽ tiến hóa thành một loại sinh vật cybernetic hậu sinh học (cái này có vẻ như tôi đã đề cập ở chủ đề vũ trụ trước rằng với cơ thể cơ giới hóa, cùng với các nguyên lý cổ điển Newton thành hiện thực thì con người đã gần với ngưỡng thần thánh, ở chính giai đoạn này đây). Chúng ta đang nói về một hành tinh mà robot thay thế loài người, xây dựng những cấu trúc Dyson Sphere để hút năng lượng của tất cả các ngôi sao. Nói theo một cách chính trị thì đây chính là "chủ nghĩa cộng sản".

Sử dụng một lực đẩy siêu việt nào đấy mà khoa học hiện hành (và cả loài người nữa) chưa tưởng tượng ra được để di chuyển khắp hệ ngân hà của chính nó (theo tôi được nhớ là động cơ đẩy tưởng tượng). Thậm chí một hành tinh cấp 3 hoàn toàn có khả năng lấy năng lượng từ hố đen vũ trụ, hoặc tự tạo ra cho mình những ngôi sao chỉ để khai thác năng lượng, đỡ mất công đi đánh chiếm.

Những bậc thang khổng lồ của văn minh

Không dừng lại ở mức độ thứ 3, câu hỏi tiếp tục được thang Kardashev đặt ra: "Tiếp theo là gì?" Kardashev không đưa ra một giả thiết cụ thể về những nền văn minh tiến bộ hơn nữa, nhưng các nhà tiên đoán đã đề xuất rằng một thế giới loại 4 có thể khai thác năng lượng của toàn bộ vũ trụ. Rồi một thế giới loại 5 có thể làm như vậy theo cấp số nhân, tức là từ nhiều vũ trụ.

Vậy còn loại 6 hay loại 7 thì sao? Theo nhà vũ trụ học, nhà toán học và nhà vật lý vũ trụ John D. Barrow, thì khi đạt đến mốc 6, một nền văn minh có thể thay đổi những thành phần cơ bản nhất của vật chất theo ý mình, như các hạt quark hay hạt lepton; mốc 7 sẽ là khi ta nắm trong tay cấu trúc của thời gian và không gian. Nghe đâu người ta hay gọi đây là nền văn minh Omega.

Các mốc thang được Kardashev đưa ra xưa kia chỉ dừng lại ở con số 3 - khi một nền văn minh có thể có được lượng năng lượng bằng cả thiên hà thôi. Tất cả những mốc sau, xin được nhường lại hết cho trí tưởng tượng của con người. 

Bình luận: Tôi không bàn gì thêm về ba mốc trước mà tôi sẽ nói đến những mốc sau của văn minh. Rằng đích đến cuối cùng của văn minh chính là "những con người trở thành vị thánh". Đầu tiên chúng ta phải xem xét lại định nghĩa của thần thánh hiện tại. Hô biến! Và một thỏi vàng xuất hiện. Nghe nó có vẻ đầy phép thuật? Kì ảo? Ồ không. Suy nghĩ kĩ lại thì nó không hề vô lý, - dù dựa trên khoa học, cụ thể là khoa học lượng tử. John D. Barrow ông đã tiên đoán khá chuẩn xác về mốc 6 và 7. Đó là trong không khí hay mọi không gian trong vũ trụ đều tồn tại các dạng vật chất, hay nói cách khác là các hạt nguyên tự, hạ nguyên tử. Tôi, bạn, áo quần bạn đang mặc đều được tạo ra từ chính những hạt đó. Điều đó có nghĩa là gì? Nếu hàng tỷ cấu trúc của tôi bị thay đổi thì tôi sẽ biến thành vật chất khác, và đương nhiên, ý thức nhận thức mất tiêu luôn. Nói một cách nôm na và giản đơn thì là giống như việc "biến hình" ấy. Nếu sở hữu công nghệ có thể thay đổi được hàng tỷ cấu trúc của nguyên tử thì việc tạo ra "1 thứ" từ "không" là hoàn toàn có khả năng. Và như ở chủ đề không - thời gian mà tôi đã đề cập, việc thay đổi được được không thời gian thì phải thay đổi được toàn bộ vật chất trong vũ trụ, nói cách khác là khi làm chủ được các hạt vật chất và thay đổi theo hình dạng mình muốn. Suy ra rằng, việc thâu tóm làm chủ thời gian không gì là không thể. Hay nói theo một cách khác, mỗi con người chúng ta, ai cũng đều là "Chúa" ở thời đại đấy. Nếu nghĩ như vậy, thì chúng ta ở đây, chẳng phải chính là "Chúa cổ đại" sao? 

Điều này lại làm tôi dấy lên một giả thuyết, liệu có phải loài người đã thực sự làm chủ cả vũ trụ, trước khi ai đó nhấn nút "reset" và bắt đầu lại từ đầu? 

Hãy nói tôi nghe về trí tưởng tượng của bạn, cứ thoải mái vì dù sao chúng ta cũng sẽ "xanh cỏ" cả trước khi thấy được sự thật.

Thứ Tư, 29 tháng 7, 2020

Chủ đề tình yêu: Góc độ siêu hình: Tình yêu là ham muốn chủng loại (Phần 1 - trích Métaphysique de I’amour)

Who ever lov’d that lov’d not at first sight?

(Ai yêu mà lại chẳng yêu ngay từ lúc mới thoạt nhìn?) (Shakespeare, As you like it).

Về quan điểm này, đáng kể là đoạn văn sau đây trong cuốn tiểu thuyết Guzman d’Alfarache của Mateo Aleman, nổi danh hàng hai trăm năm mươi năm nay: No es necessario, para que uno ame, que pase distancia de tiempo, que siga discurso, ni haga eleccion, sino que con aquella primera y sola vista, concurran juntamente cierta correspondencia ô consonancia, o lo que aca solemos vulgarmente decir, una confrontacion de sangre, à que por particular influxo suelen mover las astrellas.

(Khi đã yêu, người ta chả cần phải để lâu, phải suy nghĩ, phải chọn lựa; nhưng ngay từ cái nhìn đầu, nhìn một cái thôi cũng đủ cho hai lòng giao hợp, hay cái mà ta thường gọi là tương cảm máu huyết, một sự tương cảm thường được một sự ảnh hưởng của các sao kích thích).

Vì thế cho nên khi mất người yêu, hoặc vì địch thủ hay vì tử thần, đối với kẻ yêu say đắm, đó là một nỗi đau khổ hơn hết, vì là một đau khổ có tính chất siêu việt, ở chỗ không những nó chỉ đập vào cá tính của hắn, mà còn xúc phạm đến cả cái yếu tính vĩnh cửu của hắn, đến sự sinh tồn của chủng loại, của ý chí đặc biệt và của cái mệnh lệnh của ý chí giao phó sứ mạng cho hắn. Vì thế mà khi ghen, người ta đau khổ thật là khủng khiếp và phải chăng cái hy sinh lớn lao nhất là nhường người mình yêu cho kẻ khác. Kẻ anh hùng cho rên rỉ là xấu hổ, trừ rên rỉ vì tình; vì khi rên rỉ vì tình, không phải họ, mà chính là chủng loại rên rỉ. Trong vở Grande Zénobie của Calderon, vào hồi hai, có một cảnh giữa Zénobie và Décius, trong đó Décius nói:

Cielos, luego tu me quieres?

Perdiera cien mil victorias

Volvierme,...

(Trời ơi! Em yêu anh thật sao! Nếu vậy anh sẽ từ bỏ ngàn chiến thắng, anh sẽ trở về, ...)

Ở đây, danh vọng, cho đến bách chiến bách thắng, đã bị loại ngay khi ái tình, tức là quyền lợi của chủng loại, lâm cuộc và thắng hẳn hoi; vì quyền lợi của chủng loại, so với bất cứ quyền lợi nào khác dù quan trọng mấy đi nữa, cũng vẫn là tối thượng. Riêng đối với nó, danh vọng, bổn phận, thủy chung đều phải nhường bước sau khi đã chống lại mọi cám rỗ khác, kể cả sự đe dọa của thần chết. Cũng vậy, trong đời sống riêng tư, trên điểm này người ta thường bất chấp lương tâm: đó là trường hợp của những người bình thường chân chính ngay thẳng lại trắng trợn ngoại tình một khi tình yêu say đắm, tức là quyền lợi của chủng loại, đã xâm chiếm họ. Mọi sự diễn ra như thể lúc họ tưởng mình đã ý thức được một cái gì còn chính đáng hơn là cái chính đáng của các quyền lợi cá nhân xưa nay; đó chính là vì họ hành động theo quyền lợi chủng loại. Trên điểm này, Chamfort từng nói một lời đáng kể: khi một người đàn ông và một người đàn bà yêu nhau mãnh liệt, tôi thiết tưởng, dù cho có trở ngại gì ngăn cách đi nữa, chẳng hạn, chồng, cha mẹ, v.v... đôi tình nhân kia vẫn là của nhau, do định luật Thiên nhiên, họ vẫn thuộc về nhau thuận theo lẽ trời, bất chấp các luật lệ và công ước của con người. Những ai phẫn nộ về lời này xin hãy xem lại Thánh Kinh hẳn phải lấy làm lạ rằng Chúa cứu rỗi sẵn sàng tha thứ người đàn bà ngoại tình đến thế nào, vì cho rằng tội lỗi đó nằm sẵn ở trong lòng tất cả những kẻ có mặt.

Xét theo quan điểm này thì phần lớn vở Decameron chẳng khác gì là một sự diễu cợt và miệt thị ra mặt của tinh thần chủng loại đối với các quyền hạn cùng quyền lợi của các cá nhân mà nó chà đạp. Khi các vấn đề môn đăng hộ đối, giai cấp chênh lệch, hay những hoàn cảnh éo le tương tự đứng ra ngăn cản sự phối hợp giữa đôi tình nhân yêu nhau tha thiết, tinh thần chủng loại cũng không thèm đếm xỉa đến chúng và cho chúng là trò vụn vặt; một khi nó đã theo đuổi những cứu cánh liên quan đến hằng hà thế hệ thì nó đá tung các định chế cùng các cố chấp ấy của con người.

Cũng vì cái lý do sâu sắc ấy mà khi yêu nhau say đắm người ta sẵn sàng mạo hiểm và con người bình thường rất nhút nhát lúc đó cũng đâm ra can đảm. Trong các vở kịch cũng như tiểu thuyết, ta vẫn chứng kiến một cách khoái trá và thiện cảm những đôi trai gái chiến đấu cho mối tình của họ, nghĩa là cho quyền lợi của chủng loại, và chiến thắng các người già cả chỉ lo cho quyền lợi cá nhân. Vì cái nguyện vọng của đôi tình nhân đối với chúng ta hình như quan trọng hơn, cao cả hơn và do đó chính đáng hơn mọi cái đứng ra cản trở nó, ngay trong cái phạm vi mà chủng loại đáng kể hơn là cá nhân. Vì vậy, đề tài chính của mọi vở tuồng vẫn là sự can thiệp của tinh thần chủng loại với mọi mục đích của nó, va chạm với các quyền lợi riêng tư của các cá nhân được đề ra và do đó đe dọa phá hoại hạnh phúc của họ. Thường thì nó thắng, và điều này là thỏa mãn người xem vì nó phù hợp với công lý nên thơ, vì họ cảm thấy rằng các cứu cánh của chủng loại quan trọng hơn các cứu cánh của cá nhân nhiều.

Vì thế cho nên, khi chung cuộc, trong lòng thư thái, người xem từ giã đôi tình nhân đội vòng chiến thắng, chia sẻ với họ cái ảo tưởng là đã xây dựng hạnh phúc riêng cho họ, trong khi chính ra họ đã hy sinh hạnh phúc của họ cho quyền lợi chủng loại, trái hẳn với ý kiến của các người già cả thấy xa. Trong vài vở tuồng đi lệch thường tình, người ta thử đảo ngược tình trạng và đặt ép hạnh phúc trên đầu các cá nhân bất chấp các ý định của chủng loại; thì người xem lại cảm thấy cái đau đớn mà tinh thần chủng loại đang đau, và ấm ức trước cái lợi mang đến cho các cá nhân. Tiêu biểu cho loại này, tôi có vài vở kịch ngắn rất quen thuộc như Nữ hoàng mười sáu (La Reine de seize ans) và Môn đăng hộ đối (Le mariage de raison)

Trong các bi kịch diễm tình, đôi tình nhân, vốn dĩ là công cụ của tình thần chủng loại, thường chết đi khi mà các hy vọng của chủng loại bị tiêu tan, chẳng hạn như trong Roméo và Juliette, Tancrède, Don Carlos, La Fiancée de Messine.




Đôi lời về cô độc và cô đơn của con người

Chúng ta là con người

Loài sinh vật kì lạ?

Hoặc sự tự huyễn hoặc

Rằng chúng ta là duy nhất.

Bạn có cô đơn không? Trước hết là phải định nghĩa được, "cô đơn"  là gì. Có người nói: Cô đơn là trạng thái một mình, không có ai bên cạnh. Có phải thực là thế? Bạn có cảm thấy cô đơn khi bản thân ở giữa đám đông không? Khi bản thân vẫn còn đang sống cùng gia đình, bạn bè và người thân, bạn có cảm thấy đôi khi lạc lõng, vô định chứ? Cô đơn là khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi với con người của chính mình, nó là một trạng thái (cảm xúc). Khi trong bóng đêm, con người trong tiềm thức hình dung thấy những cái bóng bao trùm, hay những âm thanh kì quặc và ồn ào trong đêm yên tĩnh, tiếng cót két vang lên chẳng biết đến từ đâu. Đó là vì cô đơn. Những tâm hồn cô đơn là những tâm hồn cần được chữa lành, những tâm hồn có nguy cơ trở nên trống rỗng sau một quá trình dài đấu tranh trong tâm trí, phải, những suy nghĩ của họ lặp đi lặp lại, những ám ảnh trỗi dậy từ quá khứ, nó sẽ bao trùm xung quanh họ, rồi tâm trí cũng trở nên hao mòn và... mọi thứ chẳng còn ý nghĩa gì nữa.

Cô đơn là khi ăn một mình ở một bàn ăn cạnh cửa sổ, ngắm nhìn mọi thứ, những con người, cảnh vật xung quanh, nó như là một thói quen vậy. Cô đơn là khi muốn khen sự chuẩn bị của người bạn chu đáo thế nào, cách thức chuẩn bị chuyên nghiệp ra sao, và khi viết những dòng chữ bình luận và nhận xét. Chẳng ai hồi âm, chẳng sự đáp lại. Người cô đơn giữ cho mình một tâm hồn gần như là đã chết, đương nhiên chẳng thể nhận ra họ trong đám đông được, vì họ vẫn đang nói cười đấy thôi. Nhưng nhìn đi, ánh mắt của họ dường như đã chẳng để tâm điều gì nữa.

Bạn có cô độc không?  Đâu là sự khác nhau giữa cô đơn và cô độc? Nếu cô đơn là trạng thái, là cảm xúc thì cô độc dường như là một sự lựa chọn. Cảm xúc của người cô độc vẫn vậy, nhưng nó dường như đã trở nên ích kỷ, đôi khi hiếm hoi hơn là một sự vị kỷ. Một người không muốn làm ảnh hưởng đến ai nhưng cũng đừng ai tác động đến họ.

Cô độc là khi ăn một mình, vẫn ở đó bên cạnh cửa sổ, ngắm nhìn cảnh vật xung quanh, nhâm nhi một thức uống ưa thích và cảm nhận rõ rệt từng chút một mọi thứ. Người cô độc vẫn cảm nhận được sự đẹp đẽ, vẫn rung động, vẫn thương cảm trước lòng tốt, nhưng họ lựa chọn cách thờ ơ, trái với cô đơn, họ chẳng quan tâm hoặc gần như không xúc cảm trước những thứ đấy.

Chúng ta đáng lẽ phải đi tìm sự thỏa mãn của riêng mình, hành động theo cảm tính của mình, tìm được con người thật của mình và sống với chính con người thật của mình. Nhưng lạ thay, hầu như trong chúng ta không ai làm được.

Một người cô đơn tự do và một người cô độc tự do có khác nhau không? Khác chứ, khác nhiều là đằng khác. Tự do đối với một người cô độc là sự độc lập trong ý chí, họ có thể lựa chọn điều họ muốn trong khi đối với một người cô đơn, tự do dường như là một sự lạc lõng, một sự trống rỗng bất tận.

Lựa chọn cô độc không khiến chúng ta tách biệt với xã hội mà còn khiến chúng ta gần gũi hơn với cộng đồng. Bởi khi chúng ta thực sự cô độc, chúng ta mới bắt đầu nhìn nhận chính con người của mình và bắt tay vào tìm hiểu nó một cách tường tận. Cổ nhân có câu "Người mạnh mẽ nhất là người chỉ có một mình". Ấy thế mà chẳng phải những nhà khai sáng, triết gia, thông thái trên thế giới đều chọn một mình trước khi thực sự trở nên vĩ đại đó sao? Phải khi chỉ có một mình ta mới biết bản thân ta như thế nào. Việc lảng tránh sự cô độc chỉ khiến bản thân thêm cô đơn mà thôi. Hãy nhìn vào xã hội ngày nay khi mà một lượng người không nhỏ dần vô cảm với đời sống, lý do vì sao vậy? Vì họ dần trở nên vô cảm? Không hề, mà chính vì họ đã không đối diện với bản thân họ, một sự cô độc trần trụi. Họ cầu muốn một người hiểu mình trong khi chính bản thân họ còn không thể, họ vô định không biết lựa chọn, lưỡng lự trước những lời chào cởi mở. Chính vì cầu khát tình cảm đã dẫn con người đến cô đơn vô cảm, và dẫn đến việc lý trí họ bị lu mờ đi, nghĩ rằng, "Con người thật nhàm chán".

Đừng để cảm xúc của mình bị tan biến, hãy đối diện với nó. Rồi những con người "cùng chí" sẽ xuất hiện, đừng tìm kiếm ở đâu xa bởi con người chúng ta, ai cũng như ai mà thôi. Chúng ta độc nhất vô nhị theo mỗi cách của riêng con người ta.

Đừng tự huyễn hoặc bởi lý trí

Dùng niềm tin để đánh lừa

Con người không phải là một thể đơn nhất

Mà là sự thống nhất của hai mặt đối lập


Thứ Ba, 28 tháng 7, 2020

Chủ đề vũ trụ: Đa vũ trụ hay tất cả chỉ là ảo?

Vào thế kỉ 16, kích thước của vũ trụ luôn là thứ mà các nhà thiên văn học quan tâm, mỗi khi tìm ra phương pháp mới để đo các thiên thể xa hơn họ lại kinh ngạc về khoảng cách của chúng. Hay nói theo cách khác thì xuyên suốt trong tiến trình phát triển của nhân loại, chúng ta luôn ngạc nhiên về độ lớn của nó, lẫn bí ẩn của vũ trụ cho tới tận bây giờ, vũ trụ vẫn là điều bí ẩn. Điều này dẫn tới một hoài nghi rằng, vũ trụ có thể rộng lớn tới vô hạn.

Ngày nay, dù công nghệ đã cực kì hiện đại, chúng ta có thể quan sát các thực thể cách xa hàng triệu năm ánh sáng, chúng ta vẫn không thể quan sát hết cả vũ trụ. Chúng ta chỉ biết vũ trụ hiện đang ở tầm 13,7 tỷ năm tuổi, từ hệ số giãn nở và suy ra vũ trụ rộng 93,8 tỷ năm ánh sáng. Hay còn được gọi với một cái tên là vũ trụ khả kiến. Tuy nhiên, không ai dám khẳng định đó là toàn bộ vũ trụ của chúng ta. Hình dạng của nó như thế nào, cách thức hoạt động của nó ra làm sao, không ai có thể biết. Đó là những bí ẩn mà ai cũng đều muốn biết.

Năm 1980, Alan Guth, nhà vật lý lý thuyết và vũ trụ học người Mỹ đã đề xuất thuyết lạm phát vũ trụ nhằm giải thích những hệ quả quan sát được trong vũ trụ hiện tại. Tại sao vũ trụ 13,8 tỷ năm tuổi, lại rộng đến hơn 93 tỷ năm ánh sáng. Tại sao vũ trụ rộng lớn như vậy mà mật độ vật chất dường như là đồng đều ở tất cả mọi nơi, mọi ngõ ngách. Quy luật lạm phát cho thấy, không có quy luật nhân quả ở 2 điểm xa nhất với nhau trong vũ trụ. Bởi vũ trụ đang luôn mở rộng, ánh sáng cũng không theo kịp sự mở rộng này. Dẫn đến việc các sự kiện xảy ra ở rìa vũ trụ bên này không ảnh hưởng đến các sự kiện xảy ra ở rìa vũ trụ bên kia, dù chúng vẫn đang nằm chung trong 1 vũ trụ. Thuyết lạm phát chỉ ra rằng, sau vụ nổ big bang, chỉ trong 1 phần nhở của giây, vũ trụ mở rộng theo cấp số nhân. Nhanh hơn rất nhiều so với vận tốc ánh sáng nhưng sau đó chậm lại, vào lúc vũ trụ 9 tỷ năm tuổi, tốc độ giãn nở lại tăng lên, nhưng do vật chất bóng tối. Lạm phát vũ trụ cũng dẫn đến hệ quả là vũ trụ hiện tại rộng hơn vũ trụ hiện ta quan sát được, và nhiều nhà vật lý, thiên văn đồng tình quan điểm này. Trên thực tế, kể cả chứng minh được học thuyết này sai thì vũ trụ vẫn có khả năng rộng đến vô tận.

Vậy, hình dáng vũ trụ thật sự như thế nào? Nếu vũ trụ rộng đến vô tận thì điều đó có nghĩa lý gì? Nhiều người tin rằng, vũ trụ của chúng ta tồn tại dưới dạng bong bóng hình cầu. Logic này khá là hợp lý dù chúng ta chỉ dùng trí tưởng tượng, khi chúng ta quan sát bằng kính viễn vọng, chúng ta sẽ thấy bức xạ sóng của vũ trụ bao trùm những nơi xa xôi nhất và nó vẽ ra một vụ trụ hình tròn đang nở rộng. Nhưng câu hỏi thực chất chúng ta hướng đến, nếu vũ trụ hình cầu, vậy cái hình cầu này tồn tại ở đâu? Và tồn tại trong cái gì? Hay nói cách khác, thứ gì tồn tại bên ngoài khối cầu vũ trụ đó? Giả sử rằng mọi thứ ban đầu chỉ là hư vô, và mọi thứ đều là những không gian trắng vô hạn, và có một khối cầu đen phát nổ do hệ quả nào đó sinh ra một vũ trụ, và không chỉ thế, nó không chỉ tồn tại một vụ nổ mà tồn tại rất nhiều vụ nổ, vũ trụ của chúng ta chính là một trong những sự kiện hình thành đó. Một hệ thống đa vũ trụ trải rộng ra trong vô hạn không gian.

Thuyết đa vũ trụ ra đời giúp giải quyết các bí ẩn về năng lượng tối, năng lượng tối là nguyên nhân vũ trụ giãn nở vậy năng lượng tối từ đâu ra, để giải quyết vấn đề này, có lẽ ta phải dùng lý thuyết dây và các chiều không gian. Nhưng tóm lại, vật chất tối nó đã ở đó và hình thành từ rất lâu, tựa như gió, nó luôn ở trước mặt chúng ta, không thể sờ, chạm thấy, nhưng nó đã ở đó. Không thể phân tích năng lượng tối mà không có máy móc cực kì tinh vi.

Nếu có thể tham quan các đa vũ trụ, thì ít nhất, ta có thể tìm thấy 1 hành tinh giống hành tinh chúng ta. Trong đó sẽ có giải ngân hà, hệ mặt trời, và cả chính bạn. Nhiều người không chấp nhận rằng đang có một bản thể giống chính họ đang tồn tại. Nhưng thực sự dù tin hay không tin, khi thuyết lạm phát được chứng minh, thì có lẽ thực sự đang có một phiên bản của bạn đang tồn tại. Nếu đa vũ trụ là sai, thì chỉ còn nước tin rằng, con người đang bị Đấng Tạo hóa giam giữ mà thôi.

Con người rất thông minh, cùng với những suy nghĩ hiện đại, con người đã và đang nuôi cấy các loài động vật để phục vụ mục đích con người. Cứ đà phát triển như vậy thì sau khoảng vài ngàn năm, việc con người nuôi dưỡng được cả một hành tinh thì chẳng có gì là không thể. Việc vũ trụ tồn tại hơn 13 tỷ năm mà Trái Đất mới tồn tại 4,5 tỷ năm thì chẳng phải là quá non trẻ sao? Điều này cũng không thể phủ nhận được, rằng có thể con người chúng ta chỉ là một giống loài đang bị giam cầm và thử thách.

Tạo hóa có 2 dạng, một là Đấng Sáng thế tạo ra vạn vật, toàn bộ vũ trụ, hai là một chủng loài cực kì thông minh tân tiến đã tiến hóa lên trước con người hàng triệu năm, có thể là chủng tộc thượng cổ. Một giống loài gần với định nghĩa thần linh chăng? Hãy tưởng tượng, một con người với toàn bộ ý thức được truyền vào một thể xác được cơ giới hóa, và cơ thể đó được chạy bằng năng lượng vĩnh cửu của Newton, thì chẳng phải đó là một vị thần, một người bất tử đó rồi sao. Chỉ với dựa trên kiến thức vật lý và khoa học cổ điển con người đã có thể gần với ngưỡng thần thánh, vậy với sự phát triển vạn năm, triệu năm sau thì con người sẽ như thế nào đây? Tương tự, nếu có giống loài nào đó đi trước chúng ta rồi? Điều này cũng có khả năng, bởi xuyên suốt trong lịch sử, ngay từ thời cổ đại, thời chúng ta còn sợ thiên nhiên, chúng ta đã được chỉ dẫn bởi "các vị thần", và thậm chí còn xây dựng tượng đài bất diệt cho họ. Động cơ nào chúng ta phải làm thế? Chúng ta thường nói, mới sinh ra thì đâu ai nhận thức được Tạo hóa, liệu có phải không? Khi dù ở thời đại nào, chủ nghĩa nào, chúng ta đều không thể phủ nhận thần linh? Như một thứ ăn sâu vào tiềm thức vậy.


Thứ Hai, 27 tháng 7, 2020

Về Passions trong Les passions de l’âme (trích Chat với Descartes)

Từ năm 1643, Descartes bắt đầu qua lại thư từ mật thiết với công chúa Elisabeth xứ Boehmen (Bohemia) để trả lời các câu hỏi về đạo đức, nhất là về hạnh phúc và “passions”. Descartes soạn Les passions de l’âme như là công trình tổng hợp về các vấn đề này, hoàn tất năm 1649 như là công trình công bố sau cùng, dành tặng riêng cho công chúa.

Công chúa Elisabeth von Böhmen (Bohemia), 1636 
                    

Tư tưởng khoa học thế kỷ 17 quan tâm đến việc tìm hiểu sự vận hành của tự nhiên. Vì thế, chỗ độc đáo của Descartes là không bàn về passions với tư cách là nhà đạo đức học hay tâm lý học, mà trong viễn tượng khám phá phương pháp để tiếp cận chúng như một hiện tượng tự nhiên. Trong lá thư gửi cho người biên tập ngày 14.8.1649, Descartes cho biết “ý định của tôi không phải là giải thích passions như nhà rao giảng đạo đức, cũng không phải như triết gia, mà như nhà vật lý học”. Thế là Descartes đã không chỉ chia tay với truyền thống Aristoteles (xem linh hồn là nguyên nhân gây nên những vận động của thân xác) mà cả với truyền thống khắc kỷ và Ki-tô giáo xem passions là những lầm lạc của linh hồn và cần phải nhìn nhận chúng đúng như thế. Không, theo Descartes, chúng là tự nhiên và tốt lành; điều cần tránh là không lạm dụng chúng một cách thái quá.

Descartes tiếp tục truyền thống nghiên cứu lý thuyết về passions của các vị tiền bối danh tiếng như Augustin, Thomas Aquino và Thomas Hobbes. Tuy nhiên, tác phẩm của Descartes có nhiều nét độc đáo riêng.

Descartes xem thân xác là cỗ máy tự động, vận hành độc lập với linh hồn. Ông phát triển học thuyết của mình về passions từ quan niệm sinh lý học về thân xác: những gì trước đây bị xem là lệch lạc, bất bình thường, nay phải được giải thích một cách khoa học.

“PASSIONS” là gì?

Nếu linh hồn hay tinh thần, theo Descartes, là bản thể tư duy (res cogitans) thì nó không có tính thân xác; trong khi đó, thân xác là bản thể có quảng tính (res extensa), tức không tư duy, và chỉ có thể được xác định qua hình thể và những vận động của nó. Quyển Les Passions khám phá sự lưỡng phân (dichotomie) khá bí hiểm giữa linh hồn và thân xác.

Từ “Passions” khá khó dịch! Nhìn chung, chúng tương ứng với từ émotions (những xúc cảm) trong tâm lý học hiện đại. Tâm lý học hiện đại thường xem xúc cảm là cảm giác diễn ra bên trong chủ thể và do chính chủ thể tạo ra. Trong cách hiểu ấy, “passions” là những “đam mê”, hiểu như là những xúc cảm mạnh mẽ, những ham muốn cuồng nhiệt hay những xu hướng mãnh liệt. Nhưng, nơi Descartes, có sự phân biệt quan trọng. Passions, theo từ nguyên là pastior, chỉ có nghĩa là “chịu đựng”, “chấp nhận”, “cho phép”. Như thế, passions ở đây, theo bản tính, là sự chịu đựng, chấp nhận như là kết quả của một nguyên nhân bên ngoài tác động lên chủ thể. Descartes định nghĩa passions là “những cảm giác, tri giác của linh hồn, thuộc về linh hồn, nhưng được tạo ra, duy trì và tăng cường bởi sự vận động của những “esprits animaux” (“những tinh thần sống”)”. Vậy, những “esprits animaux” (animal spirits) này là gì? Đây là khái niệm cơ bản để hiểu sinh lý học của Descartes, có chức năng tương tự như “hệ thần kinh” trong y học hiện đại. Những “tinh thần sống” này được tạo ra trong máu, là kích thích vật lý làm cho thân xác vận động. Chẳng hạn, khi tác động vào bắp thịt, chúng khiến thân xác vận động theo mọi cách khác nhau. Mối quan hệ giữa hồn - xác thông qua cơ quan vật chất là tuyến tùng. Như thế, trong thực tế, những “passions” này là tác động của thân xác lên linh hồn. Linh hồn “chịu đựng” ảnh hưởng của thân xác và hoàn toàn phục tùng ảnh hưởng này của những passions, qua việc những “tinh thần sống” kích thích trên tuyến tùng, tạo nên những “xúc cảm” có mức xáo trộn mạnh yếu khác nhau trên linh hồn.

Có sáu loại passions cơ bản: ngạc nhiên, yêu, ghét, ham muốn, vui và buồn. Mọi passions khác là sự kết hợp của ít hay nhiều những passions cơ bản trên hay là những tiểu loại của chúng. Chẳng hạn, sự khinh bỉ và đánh giá cao là hai loại xúc cảm bắt nguồn từ xúc cảm cơ bản là sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ. Trong số nhiều xúc cảm, Descartes xem trọng nhất là lòng quảng đại (générosité), bởi nó sẽ tác động tích cực lên con người.

Mặt khác, là tác động của thân xác, nên không có gì gây tác hại cho linh hồn và cho tiến trình tư duy bằng thân xác. Nhưng điểm mới mẻ và “hiện đại” của Descartes lại là ở cách giải quyết sự xung đột nghiêm trọng giữa một bên là bản tính tư duy “duy lý” của linh hồn và bên kia là sự tác động của xúc cảm có nguy cơ đe dọa chính nền tảng tư tưởng này của ông. Xúc cảm (passions), theo Descartes, tự chúng, không nguy hại và cần phải đè nén, loại trừ như trong quan niệm cổ truyền. Vì thế, để bảo đảm sự độc lập, tự quyết của tư duy trong việc nhận thức thế giới, ta không cần tìm cách ngăn cản xúc cảm mà phải thấu hiểu chúng, biết làm chủ sự phân ly giữa linh hồn và thân xác, qua đó kiểm soát và sử dụng xúc cảm một cách thích hợp nhất. Quyển Les Passions de l’âme, trong chừng mực ấy, được không ít người xem là tác phẩm quan trọng nhất và thú vị nhất của Descartes! Ta cũng không dễ sắp loại nó vào lĩnh vực “triết học thực hành” như thói quen đối với nhiều triết gia khác, bởi Descartes không bàn ở đây về đạo đức học, lý thuyết hành động hay triết học chính trị. Có chăng, với tất cả sự dè dặt, ta có thể sắp nó vào nhân học hay tâm lý học thường nghiệm?

Tình yêu là gì?

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu 

Có nghĩa gì đâu một buổi chiều 

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt 

Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu...”

Hầu như ai cũng dễ dàng đồng ý như thế với Xuân Diệu, trừ... Descartes! Ông tin rằng có thể cắt nghĩa được nó trên cơ sở... sinh lý học cơ giới, như một trường hợp điển hình.

Yêu là khi thấy một đối tượng là tốt. Ngược lại, ghét khi thấy đối tượng là xấu. Tình yêu là xúc cảm của linh hồn được “những tinh thần sống” (“esprits animaux”) gây ra (“chúng chiếm hồn ta”, theo cách nói của Xuân Diệu!), khiến ta quan tâm đến đối tượng. Ghét làm cho ta quay lưng hay tránh xa đối tượng. Vì “thủ phạm” ở đây là “những tinh thần sống”, nên xúc cảm độc lập với ý muốn của ta. Khi yêu, ta cảm thấy mình hợp nhất với người yêu thành một toàn thể; còn ghét là thấy bản thân mình là một toàn thể!

Descartes phân biệt tình thương đầy thiện cảm với tình yêu say đắm. Nhưng cả hai thật ra chỉ là một, vì đó chỉ là sự mô tả về tác động khác nhau của cùng một bản chất: ta muốn cùng tồn tại bên nhau với đối tượng. Ham muốn là tình yêu chiếm hữu, còn tình yêu “đúng đắn” là chỉ mong muốn điều tốt lành cho đối tượng và được chia sẻ. Có nhiều loại tình yêu: thiện cảm là xem đối tượng có “giá trị” kém hơn ta; hiến dâng là xem đối tượng có giá trị nhiều hơn ta; tình bạn là đồng giá trị. Ngược lại, ghét chỉ có một loại!

Yêu và ghét đều xuất phát từ nhận thức, từ sự hiểu biết về đối tượng. Yêu bao giờ cũng tốt hơn ghét, vì nó mang lại niềm vui và không bao giờ là... quá nhiều! Nó hoàn thiện ta, kết nối ta với cái tốt và nâng cao ta lên.

Bạn đồng ý với Descartes chứ?


Nghệ thuật giao tiếp: Những kiểu người trong vấn đề phản biện

Sự thật và sự huyễn hoặc trong tâm trí con người

Tâm trí, hay bộ não con người là trung tâm của mọi hành động, tạo ra những thứ riêng biệt và những thế giới quan khác nhau. Những kinh nghiệm phong phú xuất phát từ sự tương tác đối với tâm trí và thế giới. Nó tư duy, nó cảm nhận, nó ham muốn. Và cũng chính vì những lẽ đó, tiêu chuẩn của một con người là phải tư duy, phải có ham muốn. Nó lĩnh hội được chân lý, loại bỏ sai lầm, song nó cũng là thứ thêu dệt nên những định kiến, - tâm trí con người ấy. Nó dễ dàng tin vào cái sai tương tự như cái đúng. Thật vậy, đúng sai trên thế giới này là tương đối, cũng chỉ là khái niệm do con người thêu dệt nên mà thôi, và chúng ta thống nhất hiểu với nhau như thế.

Tâm trí có thể yêu và ghét, nó có thể vị tha, đồng thời cũng độc ác. Nó có thể khiêm tốn, có thể ngạo mạn ngất trời. Làm thế nào con người tạo ra trong chính mình một hỗn hợp thiếu nhất quán giữa những thứ lý tính và phi lý tính như vậy? Nó tự lừa chính nó, tự huyễn hoặc chính mình, đánh lừa bởi lý trí. Con người là loài "tự huyễn hoặc", ngụy biện, ảo tưởng, thói nước đôi, là những tính căn bản của con người trong trạng thái tự nhiên chưa được mài dũa. Thay vì loại bỏ đi những khuynh hướng đó, bản thân giáo dục, xã hội lại làm chúng thêm phức tạp và mơ hồ hơn bao giờ hết.

Những con người thiếu tinh thần phản biện

Một số lượng lớn những người trong xã hội, họ không tự do trong việc quyết định hay nói đúng hơn, họ bị quy về mặt xã hội, họ chỉ biết tin những gì xã hội quy định và nghĩ đó là tiêu chuẩn. Tâm trí của họ là sản phẩm các lực của xã hội, còn lực cá nhân của họ thì không hiểu, thậm chí là không quan tâm. Đó là những niềm tin dựa trên định kiến, đây là những công dân mẫu mực mà nhà nước khá là mong muốn, vì thực họ dễ bị cai trị. Ví dụ, niềm tin rằng đàn ông trụ cột gia đình, còn đàn bà chỉ việc sinh đẻ, chẳng cần phải học tập gì, biết chữ là được, biết làm bếp núc, còn lại thì chỉ như một cái máy biết nghe lời là ổn. Thực ra niềm tin này đến ngày nay vẫn còn tồn tại.

Những người như vậy thường tập trung trực tiếp vào những gì trực tiếp tác động tới họ, nhìn thế giới thông qua con mắt một người dân tộc chủ nghĩa, lấy tộc người làm trung tâm, họ gán mác khuôn mẫu chung lên những người khác, đây là dạng của những người chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Khỏi phải kể ra hậu quả của những người này gây ra cho thế giới nói chung cũng như dân tộc nói riêng, Phát-xít là một ví dụ. Khi những niềm tin của họ bị tham vấn, họ lại quay lại đáp trả với lối tư duy trẻ con và đầy cảm xúc. Họ uất ức khi chính kiến của họ bị nghi ngờ, bị chỉnh sửa, họ muốn mình là trung tâm, muốn mình là ưu tiên số một, họ sống trong một thế giới chỉ có một màu xám, - những con người bảo thủ. Tự xem mình là "người tốt" là "chính nghĩa", còn những người đối lập là "kẻ xấu", "phản diện". Truyền thông đại chúng lại rất ưa thích những cá nhân này, vì họ chẳng có tinh thần phản biện, họ xem chính truyền thông là trung tâm tư tưởng, những thứ phức tạp tinh vi được quy về sự đơn giản hóa. Xuyên tạc chẳng quan trọng, sự thật cũng chẳng liên quan, niềm tin là tất cả.

Những con người thao túng (tư duy phản biện nghĩa yếu)

Có một nhóm người nhỏ hơn trong việc thao túng và kiểm soát. Những người này khéo tập trung vào việc theo đuổi lợi ích của riêng mình mà không cần để ý tới lợi ích của người khác. Dù họ cũng có chia sẻ chung nhiều khía cạnh cùng với những người thiếu tinh thần phản biện, họ vẫn có những điểm riêng biệt. Họ hùng biện một cách thuyết phục hơn, tinh xảo hơn, và nhìn chung, cũng có địa vị tương đối. Đa phần thì họ thành công hơn so với những người thiếu tư duy phản biện. Về cơ bản, họ không quan tâm đến việc làm gia tăng các tri thức hay giá trị đạo đức, thuần lý,... cái họ muốn là phương thức đạt mục đích sau cùng, họ rất cẩn thận trong việc để lộ mình ra để tìm điểm chung với người họ thao túng.

Kẻ thao túng là những người bất đồng, những người phê phán song hiếm khi thấy được tầm nhìn sâu sắc. Những kẻ thao túng không sử dụng trí tuệ cho mục đích tốt đẹp chung, bởi sau cùng những gì họ cần là lợi ích. Các công cụ như, mị dân, kiểm soát, thống trị là những công cụ điển hình của nhóm người này.

Họ muốn ảnh hưởng đến niềm tin và hành vi của người khác. Họ hiểu biết sâu về những gì khiến con người ta dễ bị thao túng. Kết quả là, họ xuất hiện trước đám đông khiến người ta liên tưởng tới một con người quyền lực, có đạo đức, có thẩm quyền, một đức ngài. Chẳng hạn như các chính trị gia, những con người có những bài diễn thuyết cực hay, hoành tráng, khiến đám đông hò hét, nhưng sau cùng là trống rỗng về trí tuệ, vì mục đích là khiến đám đông thốt lên chứ không phải để đám đông im lặng suy nghĩ.

Một kẻ mị dân, không bao giờ là một nhà phê phán xã hội đích thực cả mà chỉ là một kẻ biện thuyết, vì họ cố khuấy động cảm xúc dân chúng bằng cách viện đến cảm xúc, định kiến,... hòng nhanh chóng chiếm được cảm tình và để thâu tóm quyền lực. (theo Webster's New World dictionary)

Những con người có tinh thần phản biện (tư duy phản biện nghĩa mạnh)

Cuối cùng là một nhóm người còn ít hơn nữa, có trí tuệ sáng suốt nhưng lại không muốn kiểm soát và thao túng người khác. Đó là những người biết kết hợp tư duy phản biện, tinh thần công bằng, sự tự nhận thức bản thân và một ham muốn phụng sự mục đích chung. Họ đủ phức tạp để nhìn ra cách những người tư lợi sử dụng kiến thức về cảm xúc con người và nghệ thuật hùng biện để lôi kéo họ cho những mục đích ích kỷ. Họ ý thức rõ về hiện tượng xã hội truyền thông đại chúng, của cỗ máy thuyết phục truyền thông và sự kiểm soát xã hội. Họ là những người nhìn ra những điều mà người thường không thể nhận thấy, hay nói theo cách triết học thì những người đó không thể tự biết chính chính mình. Kết quả là, họ là những người có nhận thức cực kỳ sâu sắc đến mức không thể bị thao túng và đạo đức thuần khiết tới mức việc bị kiểm soát hay kiểm soát chẳng ảnh hưởng đến họ.

Nói theo một cách khác, theo Ayn Rand, họ là những con người sáng tạo, những người dẫn đầu. Họ có cái nhìn rộng mở, cái nhìn dẫn dắt xã hội. Nhưng hầu hết con người ta thường không thể nhận biết và đều từ chối chính "những món quà" của người sáng tạo. Bởi những người sáng tạo ấy họ khác biệt với xã hội, họ chính một tỷ lệ cực nhỏ trong dân số khiến chúng ta nhầm lẫn họ như những kẻ dị biệt.

Không ai sinh ra là có sẵn một tinh thần công bằng cả, thoạt đầu thì ai cũng như ai, chúng ta tập trung vào những ham muốn, sự đau đớn, mối quan tâm chính mình. Ban đầu chúng ta quan tâm đến những nhu cầu của người khác vì ta buộc phải làm thế, và phải trải qua một cam kết với chính bản thân mình để đi đến nơi có trái táo trí tuệ. Nói một cách khác, chiến đấu vượt qua với chính con quỷ bên trong chính bản thân mình, vượt qua những thứ cảm xúc, cảm giác tầm thường nhỏ nhen ấy, kiểm soát chúng và chiến thắng chúng, trở nên minh triết.

Họ là những người muốn thảo luận một cách công khai, chỉ ra những mặt bất đồng cũng như các mặt thống trị. Họ muốn người khác hiểu rằng, khi đã có nhiều góc nhìn đa chiều về các mặt bất đồng thì họ có thể tránh khỏi việc bị thao túng, dắt mũi. Chỉ những ai có khả năng tự phê phán, tự phản biện, tự biết chính mình mới có thể đánh giá được bản thân đang vướng vào mức nào vào sự thao túng của xã hội, tâm lý và trí tuệ của người khác.


Cập nhật lúc 11:43 am.

Chủ Nhật, 26 tháng 7, 2020

Câu chuyện: Cuốn sách của nhà vua cô đơn (trích Sách - Đảo Nguyệt Quế)

Nhà vua cô đơn đi ra biển, ngồi lên một phiến đá trắng và nói như sau:

- Hỡi đại dương mênh mông! Ta còn lại một mình, ta, kẻ lúc nào cũng truyền lệnh, giờ đây không biết ban phát cho ai những điều muốn nói. Như vậy tốt hơn chăng? Giá đã từng là nhà thông thái, ta đã đến với ngươi ngay lập tức. Bởi ngươi vẫn còn hiểu sự sâu thẳm là gì, ngươi vẫn còn biết cười. 

Ta những muốn lập vương quốc thần thánh, nhưng chẳng ai thèm nghe. Kẻ thì thán phục, kẻ khác sợ hãi, có kẻ còn tức giận; sự ghen tị, thái độ vô thần và phường trộm cắp không thiếu. Nhưng không ai làm theo những điều ta tuyên bố, tai không nghe, não không động, chẳng hề có trái tim

Ta câm lặng. Và tự hỏi: có cần thiết lên tiếng hay không?

Như thể chỉ đợi có thế, một cái bóng lướt tới, và để đánh lừa ta, hắn làm ra vẻ một kẻ lạ mặt.

- Sự trang trọng vua chúa của ngài, rất tuyệt, nhưng chỉ là thần thoại mà thôi.

Ta cũng làm ra vẻ không nhận ra hắn, ta bảo:

- Cái gì? Thần thoại, chỉ là thần thoại? Thế chẳng lẽ con người không hay biết: thần thoại chính là đời tư của thế gian?

Nghe câu nói mầu nhiệm, cái bóng biến mất, để lộ trần trụi một cái Tôi đứng đó sừng sững. Ta vớ cây gậy và xua đuổi nó đi. Nhưng uế khí của nó phảng phất đọng lại khiến ta phải xua đuổi uế khí ngay lập tức sau đó.

Các vị thần linh di chuyển, rời khỏi thế gian. Nhưng trước khi đi, họ tụ tập lại và hỏi nhau:

- Lí ra cũng phải có ai ở lại cho phù hợp chứ?

Nếu không vì gì khác, ít nhất có thể nhận ra thần thánh từ sự say mê cao thượng. Bởi vì trở thành thần thánh là gì nếu không phải trở thành chính sức mạnh để chỉ có thể say mê và cao thượng mà thôi? 

Các vị thần ngồi rất lâu trên đỉnh núi, trong những khu vườn trong suốt, dưới gốc những cây ôliu, hoặc cạnh những hồ nước mát rượi, để từ biệt trái đất xinh đẹp này ra đi. Sau cùng họ quyết định, không một vị thần nào ở lại thế gian, mà họ sẽ tạo ra một sinh linh mới.

Các vị thần gọi những thế lực lớn của các quốc gia lại và hỏi:

- Các ngươi ước ao một Thượng Đế như thế nào?

Các thế lực lớn này hấp háy, rồi nháy mắt và trả lời:

- Xin hãy quý phái!

Nhưng nghĩa của câu trả lời không nằm trong ngôn từ mà trong cái nháy mắt, bởi vì các vị thần dễ dàng nhận ra các thế lực lớn này đã quen nói dối nói trá đến mức không biết nói thật nữa.

- Thôi được! - họ bảo - sẽ có một Thượng Đế biết hấp háy mắt như các ngươi ước. 

Sau đó các vị thần gọi đám trọc phú giàu có lại và hỏi:

- Các ngươi ước một Thượng Đế như thế nào?

Đám trọc phú tái nhợt, bởi chúng tưởng điều này ám chỉ đến sự khủng hoảng tài sản, chúng bèn thưa:

- Xin hãy từ bi!

Ý nghĩa của câu trả lời này một lần nữa không nằm trong ngôn từ mà trong sự tái nhợt. Các vị thần nhìn thấy đám trọc phú sợ đến nỗi quên cả nói dối.

- Thôi được rồi! - họ bảo - sẽ có một Thượng Đế xám xịt như sự tái nhợt của các ngươi.

Sau đó các vị thần gọi các nhà bác học đến và hỏi:

- Các ngươi ước một Thượng Đế như thế nào?

Các nhà bác học đồng thanh hỏi:

- Thượng Đế? Ai vậy? Chúng tôi chưa gặp ông ta bao giờ.

Các vị thần lập tức hiểu ngay điều này và họ bảo:

- Thôi được rồi! Sẽ có một Thượng Đế lưỡng lự và chảy nhão ra như bộ não của các ngươi.

Sau cùng các vị thần triệu tập nhóm vô sản nghèo khó lại và hỏi: 

- Các ngươi ước một Thượng Đế như thế nào?

Những người nghèo khổ này oai oái van xin, thống thiết gào lên:

- Lại thêm một Thượng Đế mới nữa? Chưa đủ Thượng Đế hay sao? Chúng tôi muốn sống không có ai cai trị trên đầu chúng tôi nữa.

- Thôi được! Sẽ như ước nguyện của các ngươi - các vị thần bảo - Thượng Đế mới sẽ giống hệt các ngươi, sẽ không biết cách cai trị là gì.

Thế là các vị thần tập hợp sự dối trá, sự xám xịt, sự lưỡng lự, và sự nghèo khổ lại biến thành một sinh linh mới.

Đấy là một quái vật bẩn thỉu có tên: PHO TƯỢNG SỔ MŨI; trong thời gian tiếp theo của đời sống nó cần phải biết hấp háy mắt, cần tái nhợt, nhớp nhúa thây chảy và rách rưới.

Nhưng con người trên thế gian tưởng đây là một sự biến đổi hoành tráng, họ bèn quỳ rạp xuống trước mặt Quái vật Bẩn thỉu và vái lấy vái để. 

Thế là theo quy luật của vĩnh cửu, con người bắt đầu so sánh họ với thần tượng. Ngày nọ qua ngày kia, con người ngày càng chảy nhớt, lười biếng bẩn thỉu và khốn khổ. Nhưng không ai, kể cả Thượng Đế, cũng không thể bước ra khỏi bản thân.

Vậy là khi quái vật được tôn thờ thành thần tượng, điều đó chỉ có nghĩa rằng nó càng bẩn thỉu và càng đáng ghê tởm hơn.

Khắp trái đất lan tỏa sự thờ phụng một Quái vật gớm ghiếc, đấy là sự kính trọng những kẻ xám xịt, thô bỉ, lười chảy nước, chỉ biết hấp háy mắt và bám chặt lấy người khác.

Nhà thờ được xây cất, trẻ con được dạy dỗ trở thành bản sao của quái vật, linh hồn quái vật được đưa vào công việc quản lí nhà nước, vào sáng tạo văn hóa nghệ thuật, vào môn đạo đức học và vào công cuộc xây dựng các phong tục tập quán.

Các vị thần nhìn xuống thế gian, mỉm cười ngọt ngào vì nhìn thấy tất cả...

Một vài vị thần hỏi nhau:

- Bao giờ con quái vật này sẽ làm một cuộc tổng vệ sinh đây? Khi nào nó sẽ hốt hết lũ sâu bọ sinh sôi lúc nhúc này đây?

Nhưng một số vị thần khác lại bảo;

- Ôi dào! Cứ để chúng vui vẻ! Ít nhất để chúng một lần được biết trở thành Thượng Đế là cái gì! 

Khi ta đã hiểu ra bí mật tôn giáo mới của con người, ta không nói nữa. 

Lúc đó lại có một cái bóng đến gần, và để đánh lừa ta, hắn làm ra vẻ một kẻ lạ mặt, hắn bảo:

- Nếu nhà vua không muốn lên tiếng, ít nhất ngài hãy viết ra một cuốn "Sách-Có", biết đâu có lợi cho con người khi các vị thần quay trở lại Trái Đất.

Bởi vì đối tượng và tư tưởng vẫn có thể trống rỗng, khi nảy sinh từ một số phận trống rỗng. Vô ích có số phận khi số phận là: 

Không. Ai có khả năng viết cuốn sách này hơn nhà vua? Khi số phận của ngài nằm đúng vào vị trí của nó. Không trống rỗng, không tì vết và không đeo mặt nạ. Và vì thế cuốn sách không chỉ có đối tượng, còn có cả số phận của nó.

Và không chỉ đối tượng, mà cả cái TÔI của nó nữa, cả hai thứ đều có. Đối tượng và cái TÔI chỉ gặp nhau trong trường hợp của ngài, cùng trưởng thành và trong một khoảnh khắc đặc biệt, cái này tìm thấy cái kia. Không ai có thể biết đấy là cái nào.

Đủ lắm rồi với cái Không. Một kẻ nào đó ghen tị và bắt đầu đóng vai cao thượng. Đặc biệt: đã ai nghe thấy bao giờ chưa một kẻ cao thượng bắt đầu tự đóng vai ghen tị? Tại sao lại không? Bởi sự cao thượng là Có, nên chính vì thế là đủ, là bão hòa. Còn sự ghen tị là Không, là cái ít ỏi và trống rỗng.

Đủ lắm rồi với cái Không. Đủ lắm rồi với một lũ hùng biện - một đội quân toàn một lũ khoác lác, một lũ cao thượng tập hợp từ một bầy đàn ghen tị, một lũ thông thái nảy sinh từ những đứa ngu đần, một lũ anh hùng gom góp lại từ những kẻ hèn nhát.

Đủ lắm rồi những giọt nước mắt-có, nảy sinh từ các số phận không. 

Một tư tưởng tốt trước khi hấp thụ, hãy gõ cho nó kêu lên. Không chỉ để biết: có ai trong đó không, mà còn để biết đấy là ai, tại sao lại ở trong đó? Biết đâu một tư tưởng lớn nhất lại rỗng tuếch? Và biết đâu kẻ có trong đó chỉ là một loài sâu bọ? Và biết đâu, hắn nằm trong đó như ghen tị trong cao thượng, ngu đần trong thông thái và kẻ hèn nhát trong người anh hùng?

Nếu cái CÓ nảy sinh từ cái KHÔNG, chẳng bao giờ thuyết phục nổi ai.

Chỉ cái CÓ chiến thắng, nơi xuất hiện một ai đấy, một ai có, thậm chí một ai đấy đúng là có, và một ai có đấy đúng là đang nằm trong cái CÓ.

Nào bây giờ ngài hãy nói đi, ai phù hợp với việc viết một cuốn Sách-CÓ bằng ngài, kẻ vừa là có, vừa đúng là đang nằm trong cái có. 

Nghe đến đây ta không chịu đựng tiếp nữa mà quát lên:

- Ai gửi mi tới đây, đồ sâu bọ bẩn thỉu kia? Có phải mi đến thẳng từ các tín đồ PHO TƯỢNG SỔ MŨI. Mi muốn: có? Mi tưởng là: có? Mi tưởng có là tất cả với ta? Sự lười chảy, sự nhếch nhác, sự nham nhở? Mi tưởng có đối với ta là cái chứng sổ mũi?

Sau lời mầu nhiệm này, cái bóng biến mất, để lộ một cái TÔI trần trụi đứng đó. Ta vớ lấy gậy đuổi nó di. Nhưng uế khí của nó vẫn còn phảng phất đọng lại khiến ta phải thông gió ngay lập tức sau đó. 

Sau khi tống cổ con rắn độc đi rồi, ta vẫn còn trầm ngâm hồi lâu vì sự mất dạy của nó. Phải chăng trong ngôn từ của các thần linh cái KHÔNG hoàn toàn vắng bóng?

Bởi vì, nếu cái KHÔNG không tồn tại, không gì có thể tách các đối tượng ra được. Và nếu tất cả là CÓ, Thượng Đế cũng có thể là PHO TƯỢNG SỔ MŨI kia. 

Ta không chỉ yêu thế gian này bằng toàn những cái CÓ của ta, mà còn yêu thế gian này hơn bằng những cái KHÔNG của ta nữa.

Các vị thần linh đã ra đi và bỏ lại trái đất này. Họ ngày nay là: Không. Chất thánh thần của ta rơi rụng, trong tính chất thánh thần đó mình ta đơn độc, cùng lúc ta là tất cả: kẻ cai trị, thần dân, linh mục, nhà quý tộc, kẻ thị dân, người nông dân. Chất thánh thần của ta cũng là: KHÔNG.

Nhưng cái KHÔNG này lại chính là cái CÓ, như PHO TƯỢNG SỔ MŨI là: KHÔNG.

Ai có thể nói cái gì là CÓ và cái gì là KHÔNG?

Phải chăng: chính bản thân sự vật và mọi sinh linh không phán xét cái gì là CÓ và KHÔNG? Và nếu tiêu chuẩn bị đánh mất, đây không phải là đặc quyền của các thần linh hay sao?

Và sau họ: KHÔNG là của đại dương? Và sau đại dương: KHÔNG là của ta? 

Khái niệm về Anima (ẩn nữ) của đàn ông theo Carl Jung

Carl Gustav Jung   (26/7/1875 - 6/6/1961) là một bác sĩ tâm lý học, tâm thần học người Thụy Sĩ. Nổi tiếng với việc thành lậ...