1. Niềm tin là lòng tin về
một thứ gì đó dựa vào nhận thức của mỗi người.
Theo từ điển thì niềm
tin chính là sự tin tưởng, lòng tin tưởng. Nếu theo như thông thường,
cái cách mà chúng ta nghĩ rằng niềm tin là sự tin tưởng đối với
những điều ta chưa thể biết thì đó là sai lầm. Chúng ta sẽ lấy
ví dụ đơn giản, một câu hỏi được đưa ra “Chúng ta có thể biết ngày mai là mưa hay nắng không?”. Câu
trả lời là có, nhưng đó là với sự giúp đỡ của các máy móc, thiết
bị hay hiểu biết về các dấu hiệu thiên nhiên còn với một người bình
thường họ cũng chỉ đoán có thể có, có thể không, và điều này không
gọi là niềm tin được. Bởi họ đâu thực sự “chắc chắn”? Trong khi đó
định nghĩa ban đầu của niềm tin là “sự tin tưởng” nếu không thể tin
tưởng về chính ý nghĩ của bản thân thì tuyệt nhiên nó không thể gọi
là niềm tin được, vì thế đối với điều mà ta chưa xác định được thì
đó gọi là đoán mò.
Lấy ví dụ lại về
đồng tiền có hai mặt, khi tung hứng nó rơi xuống đất thì kết quả
chỉ có một trong hai “ngửa hoặc sấp”.Thực ra chúng ta đã biết rõ là
chỉ có ngửa và sấp, nhưng đã có ai dám chắc rằng đồng tiền sẽ
không đứng thẳng chưa? Không sấp và ngửa, trường hợp hiếm có nhưng
không phải là không thể. Khi ta biết có 3 trường như vậy thì ta biết
nó sẽ chỉ là trong 3, người kia nghĩ không có chuyện đó nên khẳng
định là nó sẽ chỉ trong 2 trường hợp. Đây chính là niềm tin, ta đã
xác định rõ chúng nhưng việc lường trước của mỗi người là khác nhau
và không biết đâu là sự thật, vì nó phải cho ra kết quả thì mới là
thật. “Chúng ta vì không thể biết
nó là ngửa hay sấp nên mới gọi là niềm tin”, điều này phải viết
ngược lại “chính vì ta biết nó chỉ
có thể là mặt ngửa hoặc sấp (hoặc cả thẳng đứng)” đây là niềm
tin.
Một ví dụ khác đó là
về niềm tin cho một ai đó, chúng ta vốn không thể biết được tâm địa
của ai đó là tốt hay xấu, điều này là chắc chắn, những gì ta bàn
tán về một người chẳng qua cũng chỉ là những cảm nhận riêng. Làm
thế nào ta có thể nói một người đang giúp cụ già sang đường là
tốt? Cũng như làm sao ta có thể nói một người vừa đánh trẻ con là
xấu? Có thể là đang vội nhưng vì đông người nên anh ta cũng ngậm đắng
mà giúp, có thể đứa trẻ hỗn láo mà người kia phải đánh. Và khi ta
có nhận thức đủ về một người ta cũng chỉ có thể nói “Tôi tin cậu
ấy là người tốt/xấu”. Về cơ bản thì khi chúng ta có thông tin về
một thứ chúng ta nghĩ nó là như vậy thì đó là niềm tin của chúng
ta.
Vậy thì điều gì làm
những niềm tin lớn như của tôn giáo không phải là một sự phỏng đoán
hay sự đoán mò nào đó? Bởi vì mỗi tôn giáo đấy là những niềm tin
lớn có lịch sử, có lập luận riêng của họ, đó là những niềm tin có
logic riêng có thể ví dụ như Thiên Chúa giáo có Kinh Thánh, Đạo Hồi
có Qur’an. Niềm tin mà không có logic thì đó là một niềm tin chết,
nói thẳng ra thì nó không phải niềm tin.
Cũng từ đó có thể
nói, ở cấp độ cá nhân niềm tin là những gì họ tin rằng nó sẽ là
như thế dựa trên nhận thức, hiểu biết của họ.
2. Niềm tin cấu tạo nhân cách con người theo các quy luật triết học
Nhân cách con người xuất phát từ nhận thức mà trong đó bao gồm 3 thứ chủ yếu là: niềm tin, hành vi và bản chất.
Để diễn đạt “niềm tin” như là một phần của cấu tạo nhân cách con người thì tôi xin viện dẫn các quy luật của Hegel, hay hiện đại ngày nay chúng ta biết tới là “quy luật lượng – chất, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật phủ định”.
Thứ nhất, là về lượng – chất, xác định được việc “niềm tin và một điều gì đó”, nếu chúng ta liên tục tin vào nó, thì nó sẽ thay đổi ta. Ví dụ, khi ta tin rằng “làm việc tốt thì mới tạo phúc cho con cháu”, tin vào điều này liên tục và thể hiện ra bên ngoài như từ thiện hay giúp đỡ người khác, cứ như vậy đến một thời điểm nào đó tự nó, hay chính ta biết đổi thành một người tốt biết giúp đỡ người khác. Hay nếu ta nhìn một người là kẻ xấu, ta đi nói xấu họ, liên tục như vậy thể hiện bằng lượng thì một lúc nào đó ta cũng thành chính kẻ xấu mà không hề nhận ra, niềm tin ở đây chính là ta nghĩ “nói xấu người đó là đúng, và họ đáng bị nói xấu”.
Thứ hai, là về quy luật mâu thuẫn, như Hegel nói thì mâu thuân là nguồn gốc của vận động, là nguyên lý của phát triển. Trong mọi sự vật hay sự việc đều có mâu thuẫn của nó, điều đó cũng có nghĩa là nếu như ta không nghi ngờ chính mình với những dòng suy nghĩ như “mình là đủ tốt chưa?”, “thế này đã hoàn hảo chưa?”, “có nên làm lại không?”,vv thì chúng ta khó có thể khá lên được. Lịch sử chứng minh rằng những ai luôn nghĩ mình hoàn hảo luôn khó phát triển cao được, trong khi đó người luôn tư duy, biết điểm mạnh yếu của mình, luôn mâu thuẫn mà thống nhất lại luôn toàn vẹn. Cũng có nghĩa, nếu như ta không đặt niềm tin của mình lên cân bàn để đong đếm thì sẽ không nhìn ra được lỗ hỏng niềm tin của mình ở đâu dẫn đến việc con người ta “luôn không hoàn hảo”, thật vậy, con người không hoàn hảo, vậy nên ta phải luôn tìm những lỗ hổng để lấp đầy làm con người ta hoàn hảo hơn, như đã đề cập thì chúng ta không nên vô hạn hóa điều gì trong thế giới hữu hạn, sự hoàn hảo cũng vậy, nó chỉ là hữu hạn mà thôi. Dù vậy, ở Hạt Nhận Thức này, tôi chỉ đồng tình một nửa để áp dụng theo hướng tư duy của tôi. Rằng “Thế giới không mâu thuẫn, con người mâu thuẫn” về phần này thì tôi cũng xin được nêu ở phần khác.
Thứ ba, là về phủ định, khi ta bắt đầu có một niềm tin mới, thì đó là ta ở thể phủ định, ở đây chính là phủ định khách quan. Chúng ta không thể ngăn cản những mâu thuẫn nảy sinh bên trong đầu chúng ta bởi mọi thứ luôn vận động. Khi nhìn thấy một sự vật, hiện tượng ta đã lập tức có những suy nghĩ về nó, đối với một thế giới tràn đầy thông tin thì sự mâu thuẫn trong con người càng đột biến. Từ quy luật thứ hai là quy luật mâu thuẫn thì ngay khi ta tóm gọn được suy nghĩ của mình và quyết định thì lúc đó ta đã có một tính chất để xây dựng nên Con Người Mới, và việc còn lại chính là thực hiện hóa nó bằng hành động hoặc liên tục tin vào nó, đó là lượng. Bởi vì phủ định mang tính kế thừa, cũng vì vậy khi ta đã thấu đáo suy nghĩ thì ta lại tiếp tục kế thừa “con người đã đi qua” của chúng ta, từ đó hình thành nên một con người mới, đương nhiên là ta chưa thể thấy rõ, vì lúc này đây, ta lại cũng chỉ là “lượng” trong một Con Người Mới ở tương lai xa hơn, hay đó là “Con Người Lý Tưởng”, hay con người ta sẽ trở thành.
2.1. Niềm tin cấu tạo nên hành vi của một con người.
Về niềm tin ở mỗi cá
nhân, cùng là nhìn lên bầu trời nhưng mỗi người sẽ có cảm giác khác
biệt, chính vì thế mà từ đó thế giới này gồm những nhóm cá nhân
khác nhau, người thì thấy bầu trời như là sự tự do, người thì thấy
bầu trời như là mái vòm tù ngục.
Niềm tin là những gì
tạo nên con người, cách ta hành động, cách ta nghĩ. Đầu tiên chúng ta cần thống nhất với nhau rằng
niềm tin sinh ra từ ý nghĩ hay là nhận thức và cũng từ đó nó là
một phần thuộc con người chúng ta, cụ thể hơn, là một phần tạo nên
tính cách, nhân cách con người chúng ta. Ngay khi chúng ta lựa chọn tin
vào điều gì đó, thì điều đó có nghĩa là nhận thức chúng ta đã
thông suốt và chọn lựa chọn tin tưởng. Nếu như ta tin rằng làm điều
tốt sẽ nhận được những điều tốt đẹp thì hành động của ta cũng sẽ
tốt đẹp. “Tư tưởng phản chiếu hành
động, hành động phản chiếu tư tưởng” hay như Neale Donald Walsch
cũng khẳng định “Belief creates
behaviors” (niềm tin tạo hành vi).
Con người thực sự là
một hệ thống tổ hợp từ những niềm tin. Theo như tâm lý học thì có
những quan điểm nổi bật như “trẻ sinh ra là thiện”, “trẻ sinh ra là
ác”, “trẻ sinh ra là tờ giấy trắng”. Thực ra, chúng ta cần nhìn vào
thực tại ngay khi đứa trẻ chào đời, chưa suy nghĩ vội sau này nó tốt
hay xấu nhưng rõ ràng và thực tế một con người khi sinh ra thì sẽ
không thể biết được đâu là tốt và là xấu. Nếu như chúng ta nói
những ngôn từ bậy bạ trước mặt trẻ, nó sẽ bắt chước, cảm nhận
riêng của tôi khi còn trẻ tôi không biết việc giết một con vật là
xấu, hay việc làm phiền bố mẹ khi làm việc là xấu, cho đến khi tôi
được nhắc nhở thì tôi mới biết đó là xấu vậy. Từ xưa đến nay khi
chúng ta dạy trẻ chúng ta cũng thường nói với nó rằng “cái này
không được”, “cái này tránh xa”, vv... Vì vậy mà đứa trẻ nếu không
có định hướng rõ ràng, không được uốn nắn thì tương lai sau này đứa
trẻ là người tốt hay xấu là một điều thật may rủi. Tôi xin trích
lời của James Clear trong cuốn Atomic Habits.
“Chúng ta không được chọn những thói quen thuở ban đầu, chúng
ta chỉ bắt chước theo chúng, Chúng ta làm theo kịch bản mà bạn bè,
gia đình, nhà thờ, trường học hay cộng đồng và xã hội địa phương
giao cho chúng ta. Mỗi nền văn hóa và cộng đồng này đều có những quy
chuẩn và kỳ vọng riêng, ta kết hôn khi nào và ở đâu, nên có bao nhiêu
đứa con, ngày lễ nào nên ăn mừng, nên chi bao nhiêu tiền trong ngày sinh
nhật của con cái. Theo nhiều cách, những quy chuẩn xã họi này là
những nguyên tắc vô hình dẫn tới hành vi của bạn mỗi ngày.”
Chính môi trường đang chi phối hành vi của ta, truyền thông, văn hóa, xã hội,... những thông tin cho vào đầu của ta mà nhận thức nhận lấy và rồi từ đó ta tin là như vậy, nó đã như thể ăn sâu vào máu, có nhiều thứ ta làm nhưng không cần hiểu tại sao, ví dụ, tư tưởng trọng nam khinh nữ, gia trưởng. Bản chất con người sinh ra lại không phải gia trưởng, mà nó là quá trình của học hỏi bắt chước và làm theo vô điều kiện. Người ta tin rằng đàn bà phải dưới bếp, đàn ông phải chiếu trên vì một vài nguyên do nào đó mà họ cho là hợp lý phải đạo.
2.2. Niềm tin là cốt lõi của
tư tưởng và con người lý tưởng (con người sẽ trở thành) trở thành bản chất.
Lấy bản thân như là
một viên đá quý và niềm tin tựa như những chất cấu thành vậy. Beryl
khi chứa sắt thì là thành Aquamarine
(ngọc xanh biển), nếu chứa Crom thì nó thành Emerald (ngọc lục bảo), nếu mà không chứa gì thì nó là
Beryl trắng. Đến cả đá quý nếu như cùng một Beryl thiếu chất này
thừa chất kia sẽ thành một loại khác thì con người còn phức tạp hơn
nhiều khi trong quãng đời của mình nghe vô số thông tin, khiến họ có
vô số niềm tin khác nhau. Nhưng dù nhiều niềm tin là vậy thì cũng có
những suy nghĩ, những niềm tin họ đã nghĩ qua và từ đó ta có thể
gặp được nhiều người “cùng suy nghĩ”, đôi khi, sự đồng suy nghĩ này
nhiều tới mức khiến ta sẽ cảm thấy đối phương như là tri kỷ, như là
“bèo gặp nước”. Đó cũng là một trong nhiều lý do mà khi gặp một
người ta lại dễ nói chuyện và thân thuộc như bạn bè lâu năm, bởi vì
phần nào đó của bản thân họ cũng như bản thân ta, tôi gọi đây là “sự đồng điệu hạt nhận thức”.
Lấy mốc bản thân khi ta
còn bé, là nam thì thường thích siêu nhân và không ít người nghĩ
mình muốn trở thành siêu nhân. Đó là niềm tin của đứa trẻ, và nó
cũng không hề ngây thơ như cái cách ta nhìn vào một nhà triết học,
một người nổi tiếng, ta muốn được như vậy, ta lấy đó làm hình
tượng. Lấy ví dụ như Herbert Chavez, người Philippines, anh ta hồi bé hâm
mộ siêu nhẫn tới mức độ mà lớn lên phẫu thuật 23 lần và không có ý
định dừng lại. Nhưng không phải ai cũng có đủ đam mê và hâm mộ dành
cho một ai hay thứ gì đó suốt một đời được.
Bắt đầu từ việc lúc
là trẻ con, ta được chỉ dạy cái này cái kia. Đương nhiên, tùy tính
cách đứa trẻ và phản ứng của nó, có đứa cáu kỉnh, có đứa ngoan
ngoãn đứa thì lại rất bướng. Tuy nhiên, nó không phải là tính cách
cố định của trẻ, việc chúng ta thêm vào đứa trẻ những thông tin khi
còn bé có thể ảnh hưởng phần nào trong vô thức và tiềm thức của
đứa trẻ dẫn đến sự thay đổi sau này, trên
thực tế ít ai còn nhớ tới những sự việc còn bé và cũng không ảnh
hưởng lớn tới suy nghĩ lúc lớn lên. Cũng bởi vậy mà con người trong
cuộc đời có rất nhiều lần thay đổi tính nết, điển hình là tuổi
dậy thì và lúc đi làm việc và hôn nhân.
Bản chất một người có thể hình thành sau khi hành động một lượng liên tục vừa đủ, hoặc tin tưởng một niềm tin cũng một lượng vừa đủ. Cũng ở ví dụ trên, khi con người ấy hành động gia trưởng từ những gì họ tin là hợp lý thì dần dần họ sẽ trở thành người gia trưởng, gọi là thấm nhuần. Ngược lại, nếu trong một xã hội mà ai cũng gia trưởng thì người kia tin rằng anh ta cũng phải gia trưởng thì mới là phải đạo thì không cần thông qua hành vi nữa mà từ niềm tin đó anh ta có ngay bản tính gia trưởng và từ đó hành vi gia trưởng xuất hiện.
Cái bản chất và cái hành vi luôn tác động qua lại và có mối quan hệ mật thiết với nhau.
"To be is to do"
"To do is to be."
3. Niềm tin, hành, vi, bản chất con người xuất phát từ nhận thức.
Tôi không tin vào cái
bản chất tự có của con người.
Có người lấy ví dụ,
“Tại sao trong một môi trường hai người cùng sống nhưng người lại phạm
tội người thì giúp đỡ người khác?”, bản chất là thứ cố hữu không
thể di dời và thay đổi? Sinh ra tốt là tốt và xấu là xấu.
Vậy thì phải hỏi thêm
một câu nữa, “Tại sao một người tốt bỗng hóa điên mà phạm tội?”, hay
chúng ta sẽ phản biện tốt chỉ là vỏ bọc bề ngoài còn phạm tội sau
này chính là bản chất sau cùng?
Vậy hỏi thêm câu nữa,
“Một người trước đây làm nhiều chuyện xấu, bạo lực học đường, mất dạy với bề
trên, sau này trở thành một người tốt?”, giờ lại tiếp tục luận điệu
xấu là vỏ bọc bên ngoài và tốt là cái sau cùng?
Từ những điều trên cho
ta thấy điều gì? Đó là chẳng cái gì cả.
Tốt xấu là tương đối,
ai cũng có thể tốt và ai cũng đều có thể xấu xa. Theo tâm lý học
tội phạm, thì chỉ cần đúng hoàn cảnh thì những tính cách tiêu cực
sẽ lấn át phần tốt. Không thể nói một người phạm tội là xấu hoàn
toàn, họ vẫn có những phần tốt, có thể là một số ít.
Bản chất không tự có.
Nhưng tôi lại tin vào sự tự có của nhận thức.
Và cũng chính từ đây
mới hình thành nên bản chất.
Nhận thức bậc cao hơn
thì hiểu sâu sắc hơn. Còn nhận thức hời hợt thì không hiểu các giá
trị đạo đức là gì.
Nói cách khác, chính
nhận thức trau dồi cái bản chất. Nhưng đồng thời nhận thức có thể
được trau dồi bởi tri thức.
Một người nhận thức
cao không có thành tích học tập tốt nhưng lại có sự hiểu thì cái
bản chất tốt sẽ được trau dồi lấy con số làm ví dụ như là 5, 6
điểm thì người đó cũng là công dân gương mẫu cho xã hội.
Một người nhận thức
thấp thì học tập bao nhiêu cũng chẳng tiếp thu dẫn đến cái bản chất
luôn là 0 điểm, không tiếp thu, thì làm sao mà trở nên tốt?
Một người nhận thức
thấp nhưng có học tập chăm chỉ thì vẫn được bồi dưỡng phần nào đó
sự thiếu sót thông qua những bài học anh ta được học.
Cái nhận thức ở đây
chính là khả năng thu nhận thông tin, khả năng đánh giá tư duy. Theo
Mác- Lenin thì nhận thức
“...là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình nhận thức diễn
ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất,
từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.”
Nhận thức khác bản
chất. Bởi khi ta có nhận thức bằng 0 thì bản chất bằng 0. Đó là
bản chất loài thú. Nhưng ta là con người, ta có tư duy, nhận thức ta
sinh ra không thể biết làm gì theo bản năng như loài thú được, nó
biết nó sợ gì và trên loài nào, con người thì không. Vì thế bản
chất không quyết định cái nhận thức mà cái nhận thức quyết định
cái bản chất.
Tôi có câu hỏi:
“Ở đây có ai mà không
cần tiền?”
Đa phần đều sẽ nói,
“Có đương nhiên tôi cần tiền”
Một số ít sẽ nói
thêm, “Nhưng tôi dùng tiền như phương tiện”
Có vài người nói, “Tiền
là tất cả, không tiền là vô dụng”.
Chính nhận thức đã giúp
ta định hình bản chất, ta biết đó là tiền và ta có nhận thức về
nó, từ đó bản chất được quyết định, nó cũng sẽ chi phối luôn hành
vi của ta và đó là niềm tin của ta.
Một ví dụ khác, có
một người đang chết đuối, người ta sẽ làm gì?
Có người nói, “Chờ anh
ta không vùng vẫy nữa rồi cứu cũng chưa muộn”.
Người nói, “Tìm cái
cây dài đưa anh ta cầm rồi lôi lên”.
Vài người nói, “Tôi
không biết bơi”
Có người đặc biệt hơn,
“Tôi mặc kệ, tôi thấy là tôi cứu nếu không sẽ cắn rứt lương tâm”.
Có người phản ứng
nhanh, có người phản ứng chậm, nhận thức tập luyện lâu dài sẽ thành
tiềm thức, như một thói quen mặc định vậy. Tóm lại thì ta đã có suy
nghĩ và nhận thức về vấn đề, vậy nên chính nhận thức đã quyết
định bản chất.
Nó bắt đầu từ khi ta
còn là đứa trẻ, khi bắt đầu có nhận thức và cũng chính nhận thức
này kết nạp đủ mọi thông tin và cũng từ việc kết nạp thông tin này
ta mới hình thành nên cơ sở cho cái gọi là “niềm tin”. Chính điều
này cấu tạo nên nhân cách con người. Nhận thức hồi nhỏ của chúng ta
không quá khác biệt, giống như lứa tuổi dậy thì, nữ giới dậy thì
sớm hơn thì suy nghĩ nhận thức cao hơn nam giới, nhưng về sau nam giới
lại phát triển nhanh hơn, và cũng chính ở những giai đoạn như vậy mà
chúng ta thường có những sự thay đổi, có thể là thay đổi lớn. Đó
cũng là lý do tại sao mà hồi trẻ chúng ta dễ thay đổi vì chúng ta
không có đủ nhận thức, thông tin, tri thức và khi về già thì chúng ta
đa phần kiên định vì ta đã tư duy đủ, thông tin cần thiết đã có. Nhìn
lại chúng ta khi còn nhỏ, khi thiếu niên, thanh niên, bao nhiêu người sẽ
nói bản thân chưa từng thay đổi?
"Niềm tin quyết định cái bản chất và hành vi con người, trong đó niềm tin lại thuộc bộ phận của nhận thức. Điều này tạo nên sự ổn định trong nhân cách con người." Hay nói theo một cách ngắn gọn
“Nhận thức quyết định nhân cách của một con người.”