Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2020

Định nghĩa thế giới: Nguyên lí và lí thuyết

Trước khi đọc bài viết này, trước đó hãy trả lời câu hỏi: "Bạn có phải là một người đủ sáng suốt?". Nếu bạn chỉ quen với những lý lẽ thông thường, và chưa bao giờ muốn tiếp nhận những điều khác biệt, mới lạ, nói cách khác thì là người bảo thủ, thì đây không phải bài dành cho bạn. Nhưng nếu bạn đến vì muốn tìm hiểu đa thế giới quan, thì tôi cũng rất mong được tìm hiểu điều đó từ bạn.

Sự khác biệt giữa lí thuyết và nguyên lí (teoria), là sự khác biệt giữa câu hỏi và vấn đề, giữa ý tưởng và tư tưởng. Nhà báo có ý tưởng, nhà thơ có tư tưởng. Chính trị gia, hoặc nhà tài chính có câu hỏi, kẻ gặp những khó khăn hiện sinh có vấn đề.

Sự khác biệt giữa lí thuyết và nguyên lí không ở chỗ, lí thuyết thì mang tính chất điều kiện, còn nguyên lí không thể thay đổi. Lí thuyết cũng không bắt buộc. Lí thuyết vì một lí do nào đấy không phù hợp, tôi làm ra lí thuyết khác có thể dở hoặc hay. Nhưng với nguyên lí, không thể không chấp nhận.

Nguyên lí đã có sẵn hậu quả, và trước hết cần phải hiện thực hóa nó, nếu không, đấy không phải là nguyên lí. Người nào không đi theo lí thuyết của họ, không sao, nhưng nếu kẻ nào không đi theo nguyên lí của họ, kẻ đó phản bội và dối trá.

Lí thuyết phần lớn là sự nổi hứng, còn dấu hiệu chắc chắn của nguyên lí là sự phổ quát, hay đúng hơn là trạng thái tích cực một cách đạo đức và hiện sinh.

Quyền sống còn của lí thuyết không phải là sự thực hành, không bao giờ là sự thực hành, bởi vậy lí tưởng chủ nghĩa, hay duy vật chủ nghĩa, hay một triết học châu Âu nào đó đều chỉ là lí thuyết.

Lí thuyết chỉ là lí thuyết, bởi không phải, và không thể là thực hành, nó sừng sững một cách trừu tượng, phi hiện thực và không có khả năng thực hiện, đúng hơn, nó là sự cuồng nhiệt và nhầm lẫn, là ý tưởng giả dối và hoang đường, lý thuyết là thứ không biết chính những điều này từ bản thân.

Lí thuyết là thứ dựng sự vật lên một cách cảm hứng và tùy tiện theo hàng lối, và không mang tính chất một trật tự. Người ta còn gọi nó là thế giới quan. Thế giới quan là một thứ khung, mẫu.

Nguyên lí tạo dựng nên trật tự sống, và bởi vậy nếu không được hiện thực hóa, không mang ý nghĩa gì. Lí thuyết xây dựng, hoặc ít nhất mang ý đồ xây dựng; nguyên lí tạo lập, và sự tạo lập lớn hơn sự xây dựng. Con người lí thuyết chỉ nhận biết, còn con người nguyên lí nhìn.

Lí thuyết không phải là nguyên lí bị tha hóa, như lí tưởng bị tha hóa của ý tưởng và tôn giáo bị tha hóa của quan điểm. Các lí thuyết một mặt tuyên bố sự ưu tiên của các lí thuyết, mặt khác tuyên bố sự ưu tiên của thực hành.

Trong nguyên lí không có sự khác biệt giữa lí thuyết và thực hành. Nguyên lí dựa trên yếu tố, rằng không có sự xác định nào thiếu vắng tầm vóc của hiện sinh và hậu quả đạo đức.

Lí thuyết không có mức độ, bởi vậy không duy trì được những gì trừu tượng hoặc cụ thể. Chỗ đứng của lí thuyết là khoa học và triết học, còn chỗ đứng của nguyên lí là nghệ thuật và tôn giáo.

Kẻ nào xây dựng một nguyên lí, kẻ đó cần thay đổi toàn bộ đời sống của mình.

Con người hiện đại sống giữa các quá độ. Ý tưởng, và câu hỏi, và lí thuyết. Họ có khoảng ba loại lí thuyết: chủ nghĩa Darwin (Darwinizmus) chủ nghĩa Freud (Freudizmus), và chủ nghĩa Marx (Marxizmus).

Nền tảng của chủ nghĩa Darwin, như Betrand Russell đã giải thích, đơn giản là một sự nhầm lẫn. Darwin đưa tư tưởng cơ bản của một nhà lí thuyết kinh tế Anh thế kỉ mười tám vào quá trình sinh học, theo đó thiên nhiên bằng con đường ngắn nhất và những công cụ đơn giản nhất kiếm tìm lợi ích lớn nhất.

Chúng ta đều biết quan niệm cho rằng đời sống thiên nhiên dựa trên những nguyên lí cơ bản của kinh tế học là một sự nhầm lẫn. Logic của thiên nhiên tuyệt đối không mang tính chất cần kiệm, trái lại mang tính thừa thãi, và bởi vậy thiên nhiên không kiếm tìm lợi ích lớn nhất, mà không ngừng cung cấp sự dồi dào (theo Bataille).

Chủ nghĩa Freud và chủ nghĩa Marx gây khó chịu không chỉ vì như chọc tức mà vì nó khiến người ta nghi ngờ, chúng sinh ra không để làm gì khác ngoài việc làm con người bực bội. Ẩn giữa các điều kiện của các chủ nghĩa này là những ý đồ mơ hồ không có ý định tìm kiếm sự thật, mà muốn bắt quả tang một cái gì đó từ con người.  Nhiều thứ dường như là không tưởng, của thế giới không tưởng, giống như những giấc mộng xa vời của các nhà không tưởng từ thời cổ đại, trung đại. Rất có thể, theo một cách nghĩ sâu xa và đầy thuyết âm mưu thì chủ nghĩa Freud và chủ nghĩa Marx ra đời để lăng mạ chất thị dân con người trong sự biếng nhác ngơ ngẩn.

Nếu nó là sự thật, dù bằng phương pháp nào, nó có thể tuyên bố gánh chịu bản chất không mấy dễ chịu của con người, thậm chí ở một phương diện nào đấy các lí thuyết này được chấp nhận một cách dễ dàng hơn. Nhưng phương pháp của Freud không chữa chạy tâm lí con người, mà tìm ra những tính chất ngớ ngẩn vô cảm trước khó khăn, bất bình thường hơn trong chính bản thân con bệnh.

Lí thuyết xã hội của Marx không ổn định các rối loạn cộng đồng, mà mong muốn tạo ra một đám đông không thèm để ý đến các phức tạp tất yếu. Con người không có khát vọng cần phải nịnh bợ, tâng bốc sự thật, nhưng cũng chẳng cần cảm thấy bị sự thật xúc phạm.

Nhận xét: Thực ra công bằng mà nói, thì điều này nó có ở mọi xã hội chứ không riêng gì thế giới nào. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, một học thuyết có tốt hay không, còn phải xem cách áp dụng của từng quốc gia, vùng lãnh thổ. Bởi mỗi nơi khác nhau, kết quả ứng dụng sẽ khác nhau. Nó đã không thành công ở Đông Âu, nhưng nó cũng đã có thời hoàng kim rực rỡ ở nhà nước liên bang Sô-viết. Tóm lại, nếu nói theo Adam Smith hay Charles Darwin thì mọi thứ đều là chọn lọc tự nhiên để tạo ra cái tốt hơn mà thôi, nói cách khác thì mọi thứ đều có thời điểm của riêng nó và chẳng có cái nào là mãi mãi. Kiến thức của chúng ta là có hạn, và con người lại chẳng có khả năng khả kiến tương lai mà chỉ có thể xâu chuỗi quá khứ. Không có cái nào là tốt nhất, chỉ có tốt hơn mà thôi.

Và cũng không phải chủ nghĩa Marx là chỉ là lý thuyết trên giấy, thực tế thì đã có được nhiều ứng dụng thực tiễn, nhưng kiểu lý thuyết như thế nếu mong muốn có tác động lớn, lại cần một kiểu người phù hợp với nó.  Một người xã hội chủ nghĩa, theo đuổi lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Một người tư bản theo đuổi tư bản chủ nghĩa. Không thể có kiểu nửa vời, "Capital communism", nếu lý thuyết đã không còn thuần túy lý thuyết, vậy thì con người theo nó cũng là người đã tha hóa. Thay vào đó, để phù hợp với thực tiễn, nhu cầu thời đại, có lẽ nên chỉ đơn giản là người chủ nghĩa quốc gia (nationalist) hoặc cao xa và có chút viễn vông hơn, một người chủ nghĩa thế giới (cosmopolite).

(Trích Patmosz I)

Chủ đề nghệ thuật: Anh hề Arleyquin (trích mục 11)

Có một số tác phẩm hội họa lớn vẽ Arlequin - anh hề, ví dụ như của Picasso, của Schumann, hoặc Stravinskij, hoặc Velazquez. Anh hề một mình, có cái nhìn gần như trống rỗng. Đấy là cái nhìn không đối tượng, tượng trưng cho sự buồn bã, như không thấy gì, hoặc đúng hơn không nhìn thấy cái gì.

Anh hề không sợ. Vì đã quá điên hoặc linh hồn quá nghèo khó. Hay dùng từ khác: vô tư và là con số không. Không có gì để sợ. Nhưng sự buồn bã vẫn nằm trong anh hề, như điểm đối nghịch lí của tiếng cười của chàng ta.

Picasso vẽ cái nhìn trân trân vào không điểm này trong nhiều bức họa, ví dụ Anh hề áo đỏ, Hai Arlequin hoặc trong Ba nhạc sĩ. Nhưng gần như tất cả các họa sĩ chân chính đều quan tâm đến xiếc, như anh hề của Shakespeare, của Molière, của Aristophanes đều gắn với nhà hát vậy.

Stravinskij trong Petruska viết về điệu cười gắn với cái buồn sâu sắc của anh hề. Velazquez vẽ trong Những anh hề, Schumann trong Karneval và Papillons, trong Kreislieriana, và nhất là trong Novellette. Schumann còn đưa ra một lí thuyết trong đó anh hề và nỗi buồn sống cùng nhau, hai thực thể này ông đặt tên là Eusebius và Florestan.

Mùa của Arlequin - anh hề là lễ hội hóa trang. Anh hề là ông hoàng của lễ Karnevál- cũng là lễ Dionusos, khoảng thời gian nghịch lí và phép thuật trong năm, khi con người trong trang phục anh hề nhảy múa, cười hát, ăn uống tưng bừng.

Đây là chủ nghĩa kích động linh hồn của Karnevál và lễ hội Dionisios, khi nghịch lí phép thuật của sự sống nổ tung, tháo chạy ra đường phố, bằng một cách thức nguyên thủy nào đó cho phép con người không vì lí do gì hết cắn vào tai nhau.

Khẩu hiệu của Arlequin - anh hề lúc đó: God is in his heaven - all right with the world (Chừng nào Thượng Đế còn sống trên trời, chừng đó thế gian không có gì đáng sợ)

Nhưng chỉ sau chiếc mặt nạ, cần đeo mặt nạ lên để không ai nhìn thấy. Và sau cái mặt nạ là nỗi buồn bã, như dưới Eusebius là Florestan và như trên nét mặt các anh hề của Stravinskij, Velazquez và Picasso là nụ cười vô hình trân trân.

Logic của sự sống là nghịch lí bởi vậy sau tiếng cười là nỗi buồn để tiếng cười tồn tại, và sau anh hề là nỗi buồn như lửa và như dưỡng chất của sự tươi tỉnh. Nỗi buồn không hề là sự sợ hãi, sự run rẩy, không hề là nỗi lo âu và sự hoảng hốt. Nỗi buồn là nỗi buồn, là thứ không thể nhầm với bất kỳ cái gì, như một cái tên bí ẩn và không thể xướng lên.

Nỗi buồn và sự huyền bí của anh hề. Ai không buồn, không thể là một anh hề chính cống. Không biết cách để trở nên dễ thương và nhẹ nhõm. Không biết cách trở thành Thánh Assisi Ferenc, hay chàng điên của Trung Quốc hay Pantagruel và Till Ulenspiegel.

Kì diệu làm sao khi cả hai đặc tính này nằm trong phép mầu của nghịch lí, cùng lúc với điệu cười hô hô-ha ha và nỗi buồn sâu sắc đến tận tủy. Kẻ nào không biết đến nỗi buồn, kẻ đó không thể vô tư, không biết nhảy nhót và tạo ra những lối chơi chữ, và chế nhạo mọi đế vương.

Nỗi buồn biến anh hề thành kẻ không biết sợ. Thành con số không. Bởi vì ta chỉ trở thành quyền lực khi ta chẳng là gì hết. Nỗi buồn biến anh hề thành con trẻ, thành niềm vui, thành linh hồn nghèo khó.

Tươi tỉnh là sự kì diệu lớn nhất của thế gian. Khi tươi tỉnh tồn tại từ nỗi buồn, nó còn là sự kì diệu lớn hơn nữa. Đấy là nghịch lí hấp dẫn nhất của sự sống, là tri thức cao nhất của Arlequin - anh hề.
- Một giọt từ sự đọa đày (20 tiểu luận triết học)

Thứ Sáu, 24 tháng 7, 2020

Câu chuyện: Phiên tòa xét xử sáng suốt

Trong một buổi tranh tụng hoàng gia, nếu áp dụng bộ luật hiện đại vào thế kỷ trước thì nó sẽ như thế nào? Đây là một giả thuyết, xin mời thường thức:

𝑫ẫ𝒏 𝒕𝒓𝒖𝒚ệ𝒏: Một cô gái thân phận thấp hèn Sonia vì cứu một cô gái khỏi va chạm của xe ngựa bá tước mà đã làm bá tước bị thương với thương tích cần 1 tuần để phục hồi. Phiên tòa sơ thẩm mở đầu là có lợi cho bên bá tước. Với lý do: "Dân thường làm quý tộc bị thương là một tội nặng đáng bị tử hình". Sau đây là vào tranh luận. Đức vua là thẩm phán.

𝓥𝓾𝓪: Nào giờ cùng quay trở lại tranh luận. Còn lời nào trước khi tuyên án không?

𝐋𝐮ậ𝐭 𝐬ư 𝐗: Có. Thưa ngài công tố, tôi muốn xác nhận lại một việc. Điểm đáng nói ở đây là mạng sống của Sonia và vị lãnh chúa đúng chứ?

𝐂ô𝐧𝐠 𝐭ố 𝐙: Đúng vậy, tôi tin là..

𝐋𝐮ậ𝐭 𝐬ư 𝐗: Tâu bệ hạ, thần có 1 câu hỏi dành riêng cho người.

𝓥𝓾𝓪: Cho ta sao?

𝐂ô𝐧𝐠 𝐭ố 𝐙: Việc này không có liên quan đến vụ án, ngài đang muốn kéo dài thời gian xét xử?

𝓥𝓾𝓪: Ta cho phép, hãy đặt ra câu hỏi.

𝐋𝐮ậ𝐭 𝐬ư 𝐗: Vâng. Ngài coi trọng quốc gia của mình chứ, thưa đứa vua?

𝓥𝓾𝓪: ..Tất nhiên. Vương quốc này là tất cả, ta không ngại hi sinh vì đất nước này.

𝐋𝐮ậ𝐭 𝐬ư 𝐗: (đến lúc áp dụng kiến thức hiến pháp) Khâm phục, vậy thì điều gì cấu thành nên một quốc gia? Đó là lãnh thổ, không có đất đai thì sẽ chẳng có gì ngoài ngọn cờ. Đó là sức mạnh chính trị, không có chính trị thì quốc gia cũng chỉ là một đám đông. Và cuối cùng, đó là nhân dân, không có người dân thì sẽ chẳng có quốc gia. Cũng như thế. một quốc gia sẽ chẳng là gì nếu thiếu người dân trong đấy.

𝐂ô𝐧𝐠 𝐭ố 𝐙: Haha, thật ngu ngốc, đặt tính mạng một dân thường cạnh giá trị quốc gia sao!

𝐋𝐮ậ𝐭 𝐬ư 𝐗: Vậy hãy trả lời tôi, cần bao nhiêu tính mạng "thường dân" để so với 1 "quý tộc"? Giá trị của 1 quý tộc, không thể so với điều đó. Chẳng lẽ là toàn bộ dân chúng trong quốc gia? Giới hạn của ngài ở đâu?

𝐂ô𝐧𝐠 𝐭ố 𝐙: Nếu ngài thôi ngụy biện thì chúng ta sẽ thảo luận về từng công dân một. Và tôi cũng chẳng cần đặt giới hạn nào cả.

𝐋𝐮ậ𝐭 𝐬ư 𝐗: Thưa đức vua, ngài sẽ chọn toàn thể dân chúng hay quý tộc?

𝓥𝓾𝓪: Tất nhiên nhân dân phải là hàng đầu. Nhưng Z cũng đúng, lúc này đây ta đang cân nhắc tính mạng 1 người dân, không phải tất cả.

𝐋𝐮ậ𝐭 𝐬ư 𝐗: Vâng, đúng thưa ngài, giờ tôi xin mạn phép hỏi một câu khác. Nếu ngài phạm 1 lỗi, khi lựa chọn bồi thường, thì 1 bên là giết người bạn và 1 bên chặt 1 ngón tay của con trai ngài. Ngài sẽ chọn cái nào?

𝑵𝒉ữ𝒏𝒈 𝒏𝒈ườ𝒊 𝒙𝒖𝒏𝒈 𝒒𝒖𝒂𝒏𝒉: Luật sư! Ngài đang đi quá giới hạn của mình!

𝐋𝐮ậ𝐭 𝐬ư 𝐗: Đây là phần phản biện của tôi, là công việc tôi được giao. Đề nghị im lặng.

𝓥𝓾𝓪: Ta không thể chọn.

𝐋𝐮ậ𝐭 𝐬ư 𝐗: Tại sao? Bạn bè không phải không gần gũi bằng con trai ngài sao?

𝓥𝓾𝓪: Sự mất mát là quá lớn. Ta không thể ưu tiên bên nào.

𝐋𝐮ậ𝐭 𝐬ư 𝐗: Vâng, đúng là không thể cân đo đong đếm. Vậy hãy phát triển vụ án lên mức cao hơn.

 

                                      

𝐋𝐮ậ𝐭 𝐬ư 𝐗: Lãnh chúa đây bị chấn thương cần 1 tuần để điều trị, chúng ta biết điều này nghĩa là gì? Vết thương sẽ lành lại sau 1 tuần, và sẽ không để lại biến chứng, đó là mức độ nguy hại với vết thương ông ta. Bây giờ tính mạng một dân thường đương nhiên không bằng một quý tộc, nhưng vẫn có một giá trị đáng kể so với vết thương ngài quý tộc (đoạn này luật sư rất hay khi không khẳng định). Vậy thưa đức vua, ngài chọn bên nào?

𝓥𝓾𝓪: Ta không thể chọn (vị vua cũng trả lời rất tốt).

𝐋𝐮ậ𝐭 𝐬ư 𝐗: Vậy sao. Vậy chúng ta cùng nhìn lại điều luật. “Thiệt hại phát sinh từ hành vi chính đáng không vượt quá mức cho phép thì không cấu thành tội danh”. Nói cách khác, nếu không thể so sánh giá trị 2 bên, thì phòng vệ chính đáng là điều chính đáng. (nắm bắt thời điểm khẳng định rất hay)

𝑵𝒉ữ𝒏𝒈 𝒏𝒈ườ𝒊 𝒙𝒖𝒏𝒈 𝒒𝒖𝒂𝒏𝒉 ồ 𝒍ê𝒏.

𝐂ô𝐧𝐠 𝐭ố 𝐙: Khoan đã! Thưa đức vua, một dân thường tấn công quý tộc là không thể miễn tội được!

𝐋𝐮ậ𝐭 𝐬ư 𝐗: Phản đối vô hiệu, ngài đã thấy rõ luận điểm của tranh luận này.

𝓥𝓾𝓪: Cả hai đã nêu quan điểm của mình, giờ là lúc ta đưa ra phán quyết. Gia tộc bá tước có công rất lớn với vương quốc, nếu không có gia tộc bá tước trong cuộc chiến chống quân xâm lược thì cũng khó có được chiến thắng. Vì vậy, căn cứ vào giá trị mà được vinh danh lãnh chúa. Mặt khác, Sonia là công dân của nước này, như Luật sư X nói, ta không thể cân đo giá trị vết thương lãnh chúa hay giá trị của dân thường nặng hơn. Vì lẽ đó, phòng vệ là chính đáng. Vì thế ta tuyên bố, Sonia vô tội. Kết thúc phiên tòa.

Lời nhạc: Từ a đến z, tất cả chỉ là lời nói dối

𝕮ô đơn đứng một mình, khoác lên chiếc áo tự phụ;
𝕯ù có lên giọng bằng sự kiêu hãnh rẻ tiền ấy;
𝕿hì chiếc gương giấu trên kệ kia;
𝕭ên trong nó đã thấm đẫm sự xấu hổ đến đáng thương.
𝕮hỉ bày ra những vết thương để tiện khoe khoang;
𝕻hô trương những chiến công mà chẳng tốn sức có được;
𝕹hưng dù có đánh bóng thế nào, tâm trí cũng hao mòn;
𝕮ũng như cái lý tưởng đã dần lung lay.
𝕿ình yêu – cũng là – nỗi đau
𝕬n ủi – đồng nghĩa – dối trá
𝕷ời thề – thần thánh – địa ngục trỗi dậy
𝕿rò chơi ngày chiến tranh thế giới yêu dấu.
𝕮hiến trường – không – sự sống
𝕮hiến tranh - thế giới – binh lính – ngã xuống
𝕹hững đôi mắt – căm thù – chiến tranh
𝕶ẻ thua cuộc từ đầu tới cuối – dịch bệnh – đó là gì?
𝕿ôi nhìn lên chiếc khiêng cũ kĩ đang cầm;
𝕹ó đã vỡ nát mà tôi không hề nhận ra;
𝕹hìn vào trong chiếc gương ẩn chứa thứ đã gục ngã bởi quá khứ;
𝕿ôi phải gào thét bao lâu để có thể hiểu được?
𝕿rước khi hét xong thì tôi đã hết hơi rồi;
𝕼uay đầu đối mặt biết bao tội lỗi bị vạch trần;
𝕮hỉ là suy nghĩ thôi nhưng thiên đường có chỗ cho ta không?
- 𝓪𝓛𝓘𝓔𝔃 (Từ a đến z tất cả chỉ là dối trá)
- 𝓢𝓪𝔀𝓪𝓷𝓸 𝓗𝓲𝓻𝓸𝔂𝓾𝓴𝓲

Chủ đề vũ trụ: Vũ trụ được hình thành như thế nào? Một số giả thuyết.



Tôi thấy đây là một bài viết hay, vậy mà khá ít người tiếp cận nó nên tôi xin phép được chia sẻ.

Vũ trụ học là một khoa học còn rất non trẻ. Ngay cả khi Einstein đã đưa ra thuyết hấp dẫn năm 1916, bằng chứng thực nghiệm duy nhất về nguồn gốc vũ trụ chỉ là bầu trời ban đêm tối đen. Nghịch lý Olbers (1823) cho rằng nếu vũ trụ vô tận trong không thời gian thì nó có nhiều sao đến mức khi nhìn lên bầu trời theo bất cứ hướng nào, tia mắt ta bao giờ cũng gặp một ngôi sao. Và ta sẽ thấy bầu trời luôn sáng rực như mặt trời, ngay cả vào ban đêm.

Thuyết Big Bang tiêu chuẩn

Nhưng thực tế bầu trời ban đêm lại tối đen. Thật thú vị là trong bài thơ văn xuôi dài Eureka năm 1848, Edgar Poe (cha đẻ của truyện trinh thám) cho rằng, đó là do các ngôi sao chưa đủ thời gian để chiếu sáng toàn vũ trụ. Vậy bầu trời đêm tối đen chứng tỏ vũ trụ hữu hạn cả trong không gian và thời gian. Không chỉ đứng vững trước thử thách của thời gian mà giả thuyết còn đóng vai trò quyết định trong việc hình thành lý thuyết Big Bang.

Cơ sở lý luận của Big Bang là thuyết tương đối tổng quát, cho rằng không thời gian không phải là cái nền cố định để mọi biến dịch vũ trụ diễn ra trên đó, mà là các đại lượng động lực, phụ thuộc vật chất đồng thời chi phối vật chất. Điều đó dẫn tới việc không thời gian và do đó vũ trụ có thể có khởi đầu và kết thúc, một ý tưởng mà ban đầu chính Einstein cũng tìm cách chống lại.

Bằng chứng quyết định là phát hiện vũ trụ giãn nở của Hubble (Mỹ) những năm 20 của thế kỷ trước. Cho đến lúc đó, dải Ngân hà của chúng ta được xem là toàn bộ vũ trụ. Với viễn kính 100 inch tại núi Wilson, Hubble thấy Tinh vân tiên nữ, một thiên hà sánh đôi cách 2 triệu năm ánh sáng, đang tiến lại gần chúng ta. Khảo sát các thiên hà khác, ông thấy chúng đang tản ra xa. Điều đó có nghĩa vũ trụ gồm hàng tỉ thiên hà đang tản xa nhau.

Vũ trụ hiện đang giãn nở và các thiên hà ngày càng xa nhau chứng tỏ trong quá khứ chúng gần nhau, khi vũ trụ có kích thước nhỏ hơn. Suy diễn ngược thời gian mãi sẽ đi đến thời điểm khai sinh, khi toàn vũ trụ tập trung tại một điểm, nơi có mật độ và độ cong không thời gian vô hạn. Và một vụ bùng nổ 13,7 tỉ năm trước đã khiến vũ trụ sinh thành. Đó là mô hình Big Bang tiêu chuẩn.

Năm 1946, nhà vật lý Mỹ gốc Nga Gamow thấy rằng, ngọn lửa sáng thế buổi hồng hoang vẫn để lại “vết lông ngỗng” qua bức xạ tàn dư trải trên toàn vũ trụ, nay lạnh chỉ còn cỡ 30 trên 00 tuyệt đối. Năm 1965, hai kỹ sư vô tuyến Penzias và Wilson tình cờ phát hiện được bức xạ này khi chế tạo một ăngten có thể bắt sóng từ vệ tinh. Như từng xảy ra trong lịch sử, giải Nobel danh giá được trao cho phát kiến tình cờ của hai người khá ngoại đạo! Năm 1992, vệ tinh COBE (Mỹ) đo được phông bức xạ này với độ chính xác rất cao. Và Big Bang được thừa nhận rộng rãi.

Khá hài hước là cái tên Big Bang lại do nhà thiên văn Hoyle đặt ra năm 1950 trong loạt bài Nguồn gốc vũ trụ trên Đài BBC để chế diễu lý thuyết. Ông là người đề xuất thuyết vũ trụ dừng năm 1948, theo đó vũ trụ không có khởi đầu và kết thúc. Sau khám phá bức xạ tàn dư, nó đã chết vẻ vang như nhiều lý thuyết khoa học khác.

Big Bang từ đâu xuất hiện? Có giả thuyết cho rằng Vụ nổ lớn là kết quả của Vụ co lớn (Big Crunch) trước đó, khi lực hấp dẫn thắng dần sự giãn nở và vũ trụ bắt đầu co về một điểm. Nói cách khác Big Bang là điểm chuyển pha giữa các pha co giãn xen kẽ nhau của vũ trụ.

Nhược điểm chí tử của mô hình trên là bài toán kì dị. Tại Big Bang, do kích thước nhỏ vô hạn, nên mật độ năng lượng hay độ cong không thời gian lớn vô hạn, điều không có trên thực tế. Đó là vì thuyết tương đối tổng quát là lý thuyết về các hiện tượng vĩ mô, nên không mô tả các thăng giáng lượng tử đặc trưng cho thế giới vi mô. Với Vụ nổ lớn hay lỗ đen, là các thực tại vật lý vừa nhỏ (nơi các hiệu ứng lượng tử chi phối), vừa nặng (nơi các hiệu ứng hấp dẫn chi phối), cần một lý thuyết thống nhất giữa thuyết lượng tử và thuyết tương đối. Đó là thuyết hấp dẫn lượng tử.

Lý thuyết dây và Big Bang

Trong số các thuyết hấp dẫn lượng tử, lý thuyết Dây là một trong hai tiếp cận khả quan nhất, cùng thuyết hấp dẫn lượng tử vòng. Quan điểm truyền thống xem hạt cơ bản là chất điểm không kích thước. Và đó chính là lý do xuất hiện các giá trị lớn vô cùng. Lý thuyết Dây tránh điều đó bằng cách giả thuyết bản thể vũ trụ là dây một chiều, màng hai chiều hay các thực thể nhiều chiều hơn. Chúng có kích thước rất nhỏ, nhưng không bằng không (lớn gấp 10 lần độ dài Planck, 10-33cm, là kích thước nhỏ nhất còn có ý nghĩa vật lý).

Giống sợi dây đàn dao động sẽ tạo ra các nốt nhạc, dây hay màng dao động trong không thời gian 11 chiều sẽ tạo ra mọi hạt cơ bản đã biết và chưa biết. Trong khi thuyết tương đối cho rằng vũ trụ có thể có kích thước zero; lý thuyết Dây cho rằng độ dài Planck là kích thước giới hạn của vũ trụ, vì đã chứng minh được rằng, các quy luật của thế giới dưới thang Planck hoàn toàn giống các quy luật của thế giới trên thang Planck. Nói cách khác vũ trụ vi mô hoàn toàn đồng nhất với vũ trụ vĩ mô, mà kích thước Planck chính là ranh giới.

Lý thuyết Dây đưa ra hai kịch bản khác kịch bản của thuyết tương đối. Đó là thuyết tiền Big Bang và thuyết màng va chạm.

Thuyết tiền Big Bang do nhà vật lý Ý Veneziano, cha đẻ của lý thuyết Dây, đưa ra năm 1991. Theo đó trong một vũ trụ vẫn đang tồn tại, có một vùng lực hấp dẫn đủ mạnh để hút vật chất co về Vụ co lớn. Khi Vụ co lớn đạt kích thước Planck thì nó bùng nổ thành Vụ nổ lớn. Và vũ trụ của chúng ta chính là một vụ nổ như thế khoảng 13,7 tỉ năm trước. Đó là một đơn vũ trụ (universe) tự thân co giãn trong một đa vũ trụ (multiverse), thuật ngữ của nhà thiên văn Anh mang tước hiệp sĩ Martin Rees.

Năm 2001, năm nhà khoa học Anh - Mỹ, đứng đầu là Steinhardt và Turok, đưa ra mô hình khác cũng dựa trên lý thuyết Dây. Theo đó vũ trụ chúng ta là một màng đa chiều trôi trong không gian nhiều chiều hơn. Vụ nổ lớn 13,7 tỉ năm trước chính là cú va chạm giữa màng của chúng ta với một màng khác nằm song song theo chiều dư. Va chạm có thể xảy ra nhiều lần, trước va chạm hai màng co lại, sau va chạm hai màng giãn nở, như Hubble đã thấy.

Một ưu điểm của mô hình tiền Big Bang là vũ trụ chúng ta có thể tự co giãn, trong khi mô hình va chạm cần thêm vũ trụ song song. Ngược lại, một ưu điểm của thuyết màng va chạm là giải quyết được bài toán vật chất và năng lượng tối nan giải. Đó chính là vật chất thông thường ở màng bên cạnh mà ta không “thấy” gì ngoài lực hấp dẫn.

Phải chăng đó chỉ là những giả thuyết không thể kiểm chứng? Không phải như vậy, ba kịch bản trên đều đưa ra tiên đoán về mật độ năng lượng và tần số sóng hấp dẫn. Trong vòng 10 năm tới, các vệ tinh Planck, LIGO và VIRGO sẽ được phóng lên quỹ đạo nhằm thu thập số liệu. Khi đó hoặc một kịch bản vượt vũ môn, hoặc cả ba đều thất bại. Và khoa học sẽ phải tìm một mô hình vũ trụ mới.

Đa vũ trụ ra đời như thế nào?

Trên đây là ba kịch bản ra đời của vũ trụ của chúng ta. Vậy đa vũ trụ xuất hiện từ đâu và xuất hiện như thế nào? Câu trả lời là đa vũ trụ xuất hiện từ hư vô do nguyên lý bất định. Theo quan điểm vật lý, hư vô không phải là không có gì, mà chứa đầy các thăng giáng lượng tử xuất hiện do nguyên lý bất định Heisenberg.

Nguyên lý này nói rằng, giá trị tuyệt đối và thăng giáng của các trường vật lý không thể xác định chính xác đồng thời. Nên các trường phải luôn thăng giáng quanh giá trị zero, vì nếu trường bằng zero thì thăng giáng của nó cũng bằng zero. Có nghĩa giá trị và thăng giáng của trường lại chính xác đồng thời (đều bằng zero). Đó là điều nguyên lý bất định cấm, nên trường phải khác không và luôn thăng giáng. Điều đó có nghĩa các “bọt năng lượng” luôn sinh ra và mất đi. Và một số bọt có thể thăng giáng đủ mạnh để giãn nở và trở thành các đơn vũ trụ như vũ trụ của chúng ta.

Như vậy, các đơn vũ trụ có thể sinh thành và tan vỡ không ngừng như trong trò thổi bong bóng xà phòng. Còn đa vũ trụ thì sao? Câu trả lời liên quan với tổng năng lượng. Năng lượng chứa trong vật chất là dương, còn năng lượng hấp dẫn giữa chúng là âm. Nếu đa vũ trụ là “phẳng” trong không thời gian đa chiều, giá trị hai năng lượng bằng nhau và tổng năng lượng toàn vũ trụ bằng không. Và nguyên lý bất định cho phép nó tồn tại mãi mãi. Vẫn hiện hữu mà vẫn lại là số không, vũ trụ chính là biểu hiện của triết lý sắc sắc không không của đạo Phật, ít ra là về ngôn ngữ.

Vậy tại sao lại có hư vô và nguyên lý bất định để vũ trụ tự sinh tự diệt? Người viết bài này cho rằng khoa học không thể đưa ra lời giải đáp. Và đó là một trong những lý do tồn tại vĩnh hằng của nghệ thuật hay tôn giáo.

Nguồn: chungta.com, 29/03/2006

Khái niệm về Anima (ẩn nữ) của đàn ông theo Carl Jung

Carl Gustav Jung   (26/7/1875 - 6/6/1961) là một bác sĩ tâm lý học, tâm thần học người Thụy Sĩ. Nổi tiếng với việc thành lậ...