Các cuộc hôn nhân ái tình đều được kết
thúc vì quyền lợi của chủng loại, không phải vì quyền lợi của các cá nhân. Đành
rằng các được sự tự dối mình với cá ảo ảnh rằng mình hành động cho hạnh phúc
của riêng mình, nhưng chính cái cứu cánh thực sự của họ cũng xa lạ đối với
chính họ, vì cứu cánh đó là cấu sinh một cá nhân chỉ có thể cấu sinh được do họ
mà thôi. Vì thế họ phải làm sao cho được ý hợp tâm đầu hết sức, một khi cái mục
đích ấy đã ràng buộc họ với nhau. Nhưng thường thì các cặp được sắp xếp do cái
ảo tưởng bản năng kia vốn dĩ là yếu tính của tình yêu say đắm, lại mang một
tính chất bất đồng nhất. Sự bất đồng lại càng bộc lộ khi ảo tưởng tiêu tan, một
điều không sao tránh khỏi.
Vì vậy mà các cuộc phối hợp vì tình
thường có một chung cục không tốt đẹp; vì chúng lo cho thế hệ hiện sống mà lơ
là với thế hệ tương lai. Quien se casa
por amores, ha de vivir con dolores (Kẻ nào lấy vì yêu, kẻ đó sẽ sống trong đau
khổ), một câu phương ngôn Tây Ban Nha nói. Ngược lại là các cuộc hôn nhân
môn đăng hộ đối, thường được cấu kết theo sự lựa chọn của cha mẹ. Các điều nhận
xét trong trường hợp này, dù có tính chất gì đi chăng nữa, ít ra cũng thực tế
và không thể tự chúng tiêu tán được. Chúng chú trọng vào hạnh phúc của các cá
nhân hiện hữu, đành rằng bất lợi cho những kẻ đến sau; và cái hạnh phúc kia dù
sao cũng chưa có gì làm chắc. Người khi lấy vợ, nghĩ đến tiền hơn là thỏa mãn
xu hướng của mình, người đó sống như một cá nhân hơn là một phần tử của chủng
loại; nhưng như thế là trái với chân lý, nên có vẻ như trái với thiên nhiên và
do đó không khỏi bị người khinh khi. Một thiếu nữ, cưỡng lại ý kiến cha mẹ, từ
chối lời cầu hôn của một người giàu có và còn trẻ, gạt bỏ sang một bên mọi nhận
xét đăng đối và nhất nhất lựa chọn theo xu hướng bản năng của mình, thiếu nữ đó
hy sinh cái lợi cá nhân cho cái lợi chủng loại. Nhưng chính vì thế mà
người ta không thể không tán thành cô ta; vì cô ta thích cái thiết yếu hơn và
đã hành động theo tinh thần thiên nhiên (đúng ra là tinh thần chủng loại),
trong khi lời khuyên của cha mẹ đi theo chiều vị kỷ cá nhân.
Xem thế thì hình như, trong một cuộc
hôn nhân hoặc là cá nhân, hoặc là quyền lợi chủng loại, phải một đằng bị thiệt.
Thường thì như vậy hơn; vì muốn cả đăng đối cả tình yêu cùng đi song song thì
quả thật là một sự may mắn hy hữu. Sở dĩ bản chất của đa số nhân loại thật tồi
tệ về phương diện thể chất cũng như đạo đức và trí tuệ cũng phần vì người ta
lấy nhau, chẳng phải vì lựa chọn và tình yêu không thôi, mà còn theo đủ thứ yếu
tố ngoại lai, và trường hợp ngẫu nhiên này khác. Nếu trái lại người ta quan tâm
phần nào đến tình yêu thêm vào đăng đối, âu đó cũng là một bổ sung cho tinh
thần chủng loại. Ai cũng biết các cuộc hôn nhân hạnh phúc rất hiếm; chính vì
yếu tính của hôn nhân là cứu cánh, tối thượng của nó chẳng phải là thế hệ hiện
tại, mà là thế hệ tương lai. Tuy nhiên, để an ủi những tâm hồn âu yếm yêu
đương, ta cần nói thêm rằng đôi khi đi đôi với tình yêu nhục dục đắm đuối còn
có một tình cảm mang một nguồn gốc khác hẳn, một tình bạn thực sự xây dựng trên
sự hòa hợp giữa hai đầu óc; tuy nhiên thường khi tình cảm ấy chỉ biểu hiện khi
ái tình đích danh đã tắt vì đã phỉ nguyện. Thường thì nó nảy sinh khi các đặc
tính bổ khuyết và tương đối của hai cá nhân, dù là đặc tính thể chất, tinh thần
hay trí tuệ, vốn dĩ khiến ái tình nảy nở, để tạo ra cá thể phải cấu sinh, lại
bổ khuyết được nhau về tính tình cũng như trí tuệ và do đó giúp cho hai tâm hồn
hòa hợp.
Toàn thể siêu hình tình yêu được trình
bày ở đây triệt để phù hợp với siêu hình của tôi nói chung, và ta có thể tóm
tắt như sau những điều nó giúp là sáng tỏ thêm thuyết siêu hình của tôi:
Ta thấy rằng sự tuyển lựa thận trọng
trong việc tìm thỏa mãn dục tính, sự tuyển lựa nó lần lần bước lên hàng vô số
cấp bực cho đến cái mức độ của tình yêu say đắm, dựa vào mối quan tâm tỉ mỉ của
con người đến sự cấu tạo đặc biệt của cá nhân thế hệ tương lai. Và mối quan tâm
tha thiết này xác nhận hai chân lý từng được trình bày trong các chương trước:
1 - Tính chất bất diệt của bản thể tự
tại của con người, nó tồn tại trong cái thế hệ tương lai kia. Vì mối quan tâm
rất hăng hái và nhiệt thành kia, phát sinh không phải do sự suy tư và cố ý, mà
do khát vọng và do xu hướng sâu kín nhất của bản thể ta, đã không thể lại bất
diệt đến thế và có một quyền lực mạnh mẽ đến thế đối với con người, nếu như con
người lại tuyệt đối khả diệt và một thế hệ thực sự và hoàn toàn khác hẳn nó chỉ
có việc theo nó trong thời gian.
2 - Rằng bản thể tự tại của con người
nằm trong chủng loại hơn là trong cá nhân. Vì mối quan tâm đến bản chất đặc
biệt của chủng loại kia, nó là nguồn gốc của mọi cuộc tình duyên, từ cái yêu
thoáng cho đến mối tình say đắm nhất, quả thật đối với từng người đều là chuyện
quan trọng nhất, nghĩa là chuyện mà thành hay bại đều làm người ta xúc động
nhất; nên người ta thích gọi đó là những chuyện tâm tình: mọi quyền lợi liên
quan đến con người duy nhất nào đó đều được đặt sau quyền lợi của chủng loại,
một khi đã biểu lộ mãnh liệt và cương quyết, và nếu cần, phải được hi sinh cho quyền
lợi chủng loại. Như thế, con người chứng tỏ rằng nó coi trọng chủng loại hơn là
cá nhân, và nó sống gần chủng loại hơn là cá nhân.
Vậy thì tại sao kẻ si tình lại cứ luẩn
quẩn hoàn toàn quy lụy trước mắt người mình yêu, sẵn sàng hy sinh mọi cái? Vì chính
cái phần bất diệt của bản thể hắn mới tha thiết khao khát cô ta, còn lại chỉ là
phần tất diệt. Cái khát vọng mãnh liệt và ngay cả thành khẩn kia nhắm vào một
người đàn bà nhất định do đó là một đảm bảo tức thời cho tính chất bất diệt của
yếu tính của bản thể chúng ta và cho sự tồn tại của nó trong chủng loại. Nhưng
nếu vậy thì khi coi sự tồn tại đó là một cái không đáng kể và tầm thường tất là
một điều nhầm lẫn; sở dĩ có sự nhầm lẫn này là vì, nói đến sự tồn tại của chủng
loại, người ta chỉ biết liên tưởng đến sự hiện hữu tương lai của những con
người giống nhau, nhưng không đồng nhất với chúng ta; và quan niệm này tự nó
lại phát sinh ở điều là, khởi đi từ một kiến thức hướng về các ngoại vật, người
ta chỉ quan tâm đến hình thức bên ngoài của chủng loại như ta ý thức bằng trực
giác, chứ không quan tâm đến bản thể nội tại của nó.
Nhưng chính cái bản tính nội tại ấy
mới là cái căn bản, là trung tâm của ý thức của chính chúng ta; do đó nó còn
trực tiếp hơn là ý thức, và, vì là vật tự tại, nó không lệ thuộc vào nguyên lý
cá nhân. Cái bản tính này thật ra ở mọi cá nhân đều có như nhau, dù họ sống
đồng thời hay kế tiếp nhau. Và nó chính là cái ý chí sống, tức là cái gì đòi
hỏi rất ư khẩn thiết sự sống và sự sống còn. Cái ý chí ấy được miễn chết; cái
chết không động đến nó. Nhưng đồng thời, nó cũng không thể đạt đến một trạng
thái tốt đẹp hơn là trạng thái hiện tại của nó; nên cái chời đợi nó với sự sống
muôn đời vẫn là sự đau khổ và cái chết dành cho các cá nhân. Chỉ có sự phủ nhận
cái muốn sống mới giải thoát nó khỏi đau khổ và chết; có phủ nhận cái muốn
sống, ý chí cá nhân mới dứt mình ra khỏi cái gốc chủng loại và từ bỏ mọi hiện
hữu trong chủng loại. Muốn hiểu lúc đó nó là gì, ta không đủ sức hiểu, và cũng
thiếu hết các dữ kiện liên quan đến nó. Chúng ta chỉ có thể mệnh danh nó như
một cái gì có tự do sống hay không có ý chí sống. Trong trường hợp sau, Phật
giáo dùng danh từ Niết bàn. Đây là điểm mà kiến thức của con người không tài
nào hiểu nổi.
Nếu giờ đây (theo cái viễn tưởng của
các ý nghĩ cuối này), ta nhìn sâu vào cái náo nhiệt của đời sống, ta thấy mọi
con người bị giày vò bởi những đau khổ lo âu của kiếp sống này, ra sức thỏa mãn
các nhu cầu vô tận và chống lại muôn điều khổ não, để không mong mỏi gì hơn là
bảo tồn cái kiếp sống cá nhân quằn quại trong một thời gian ngắn ngủi. Thế mà
giữa cảnh hỗn loạn ấy, ta bắt gặp bốn mắt giao nhau đầy thèm muốn của đôi nhân
tình. Nhưng tại sao lại phải nhìn trộm, sợ sệt, lén lút? Bởi vì đôi nhân tình
kia là những kẻ phản bội thầm lén tìm cách lưu tồn tất cả cái khốn khổ, tất cả
các phiền não kia nếu không có họ tất phải chấm dứt; họ muốn ngăn cản không cho
chúng dứt; cũng như các kẻ giống họ từng làm trước họ. Vấn đề này có lẽ
sẽ được đề cập vào chủ đề khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét