1
Khi Romeo đang ưa thích
một nàng Roza xinh đẹp (nào đấy), chàng nhạy cảm hơn một chút nhưng vẫn xử sự
và nói năng như tất cả mọi người. Nhưng chàng bắt đầu mê sảng từ giây phút quen
Julia. Chàng nói những câu kì lạ, sử dụng những ẩn ý kì lạ. Đôi khi quái gở,
nhiều lúc vớ vẩn, phần lớn vô nghĩa. Chàng yêu càng say đắm bao nhiêu, hành vi
và lời nói của chàng càng điên rồ bấy nhiêu. Ngôn ngữ của chàng, đột nhiên so với
những kẻ khác cao hơn hẳn một cung bậc.
Hamlet lúc chưa gặp hồn
ma của cha mình, chàng hơi âu sầu nhưng xử sự và nói năng hệt như những kẻ
khác. Từ giây phút nhìn thấy cha, chàng bắt đầu mê sảng. Ô! Thật đáng ngạc
nhiên! Cũng từ giây phút ấy, hóa ra không phải chàng, mà là mọi kẻ khác mê sảng,
chàng mới là người ăn nói tỉnh táo.
Những người khác tiếp tục
sử dụng không mảy may ngờ vực ngôn ngữ của họ, còn Romeo và Hamlet nghe những lời
vô nghĩa này một cách khó chịu. Nhưng chúng ta, những kẻ nhìn màn kịch từ vị
trí có một không hai này, không gì làm chúng ta nhầm lẫn được nữa.
Chúng ta biết rất rõ,
Romeo và Hamlet nói năng tỉnh táo, còn những kẻ khác mê sảng hoặc ngộ nhận.
Chúng ta biết, Romeo và Hamlet chơi chữ, sử dụng những từ ngữ kì lạ với những ý
nghĩa kì lạ, vì, như Shakespeare viết, thế gian như thể bị lật nhào, còn ngôn
ngữ của họ như thể nhảy cao hơn hẳn một cung bậc.
Trong khi những kẻ khác
tiếp tục nói năng lệch lạc, ngộ nhận một cách không mảy may ngờ vực, thì Romeo
và Hamlet bắt đầu sử dụng những ngôn từ thể hiện chính xác tình huống.
Tình huống nào vậy? Câu
hỏi ngu xuẩn. Tình huống đang có chứ tình huống nào? Toàn bộ những kẻ khác tuyệt
đối không hiểu gì cả. Có việc gì vậy? Câu hỏi ngu xuẩn. Việc đang xảy ra chứ
còn việc gì.
Những kẻ khác tưởng
đang nói về một mức độ nguy hiểm, thậm chí gây tác hại, thậm chí bị cấm của một
sự tồn tại nào đó. Nhưng chúng ta, những kẻ nhìn màn kịch từ vị trí có một
không hai này, không gì làm chúng ta nhầm lẫn được nữa.
Ta thừa biết, chẳng có
mức độ nào ở đây. Những kẻ khác so với Romeo và Hamlet đang sống trong trạng
thái phi-tồn tại. Trong giây phút Romeo quen Julia, trong giây phút Hamlet gặp
hồn của cha mình, trong giây phút thế gian bỗng lật nhào, những kẻ không có thật
bỗng biến thành có thật. Và khi đã là cái có thật, họ bắt đầu nói năng và sử dụng
những ngôn từ thể hiện chính xác tình huống, đúng như những kẻ hiểu chính xác
tình huống
Không có bất kì một mức
độ đáng sợ, thậm chí gây tai hại, thậm chí nguy hiểm nào xảy ra. Không có sự
nói năng mê sảng nào ở đây. Không có tình huống càng điên bao nhiêu càng mê sảng
bấy nhiêu. Đấy chỉ là người ta tưởng thế. Chúng ta, những kẻ nhìn màn kịch từ vị
trí có một không hai này, chúng ta biết, những kẻ khác không đáng bàn, trong vở
kịch chỉ mỗi Romeo và Hamlet là những kẻ có thật.
2
Chưa bao giờ có đủ cơ hội
thuận lợi hơn để tiến hành sự phân biệt cần thiết từ lâu này. Nghệ thuật, thứ
mang tính chất hình học và trí tuệ, gần như mang phong thái của Pythagoras và cổ
điển, nhưng thật sự nó tồn tại từ một cảm hứng trật tự nào đó, nên bên trong
nó, tỉ lệ, sự chắc chắn và một tri thức được phản ánh.
Bởi vậy nghệ thuật này
có thể gọi là Orfika, không chỉ vì Orpheus tìm ra, mà vì trong Hi Lạp cổ điển
châu Âu Orpheus là đỉnh cao nhất. Nghệ thuật Ai Cập cũng là Orfika, từ nhiều
góc độ: nghệ thuật Tây Tạng, Trung Quốc, Toitek, Gotik, nghệ thuật Phục hưng
cũng vậy.
Nghệ thuật Orfika là
nghệ thuật kiềm chế, mà ví dụ lớn nhất là Yantra Đông phương. Nó sắp xếp các sức
mạnh mà nó tiếp cận. Bởi vậy mục đích lớn của mọi Orfika là sự hài hòa. Và bởi
vậy cổ điển Hi Lạp mang tính chất thông thái, hình học, có tỉ lệ, và bởi vậy nó
bắt nguồn từ cảm hứng của trật tự, và ở cấp độ cao nhất.
Trong tất cả các loại
hình nghệ thuật, bên cạnh những khoảnh khắc có sự sắp xếp, quy củ và kiềm chế
còn có khoảnh khắc gợi tưởng. Đây là thứ nghệ thuật phép thuật (magia) kì bí, thứ đôi khi bùng phát, và
ở châu Âu nó gần như đã hạ gục Orfika.
Nghệ thuật phép thuật
không kiềm chế mà gợi tưởng. Không tri thức mà tưởng tượng. Không tồn tại trong
sự hài hòa mà trong cảm hứng ngây ngất. Không tìm kiếm sự chắc chắn mà tìm đến
chủ nghĩa kích động (enthuziazmus).
Nó giải phóng những sức mạnh mà nó tiếp cận.
Tác phẩm điển hình là Divina Commedia - Thần khúc (Alighieri
Dante, 1265-1321), một trong những đỉnh cao của nghệ thuật Orfikus. Nó sắp xếp
và kiềm chế toàn bộ sức mạnh từ đáy địa ngục đến thiên đường cao nhất.
Tác phẩm phép thuật điển
hình là Những con quỷ của Dostoiepxki.
Đây là tác phẩm, trong đó nhân vật Stavrogi đang nói chuyện bình thản với vị tướng,
bỗng nhiên không lí do và hoàn cảnh đặc biệt nào, đứng lên, bước lại gần và cắn
vào tai ông ta.
“Âm
nhạc nói chung là một sự khủng khiếp - Tolstoi viết - nó là cái gì mới được cơ
chứ? Tôi không biết. Âm nhạc là cái gì? Nó làm gì? Người ta nói âm nhạc tác động
khủng khiếp, nhưng tuyệt đối không bằng cách nâng cao linh hồn. Không tác động
bằng cách nâng cao hoặc hạ thấp linh hồn, mà bằng cách kích động linh hồn. Dưới
tác động của âm nhạc, có vẻ như tôi hiểu cái tôi không hiểu, tôi có khả năng
làm một cái gì đó tôi không có khả năng.”
Những lời nói trên đây
của Tolstoi đặc trưng cho âm nhạc phép thuật của Beethoven. Âm nhạc tác động
linh hồn bằng cách kích động. Không nâng linh hồn lên, hoặc hạ thấp xuống mà
kích động. Âm nhạc Beethoven là âm nhạc gợi tưởng, là âm nhạc phép thuật giống
như tác phẩm của Dostoiepxki là tác phẩm phép thuật.
Đây là thứ nghệ thuật
kích động đối ngược với nghệ thuật kiềm chế linh hồn, là thứ nghệ thuật phép
thuật đối nghịch với nghệ thuật Orfika, khi tôi có khả năng làm một cái gì đó
mà tôi không có khả năng, khi tôi hiểu một cái gì đó mà tôi không hiểu. Đấy là
phép thuật. Đấy là sự ngây ngất, là trí tưởng tượng và là chủ nghĩa kích động.
Nghệ thuật Orfika đặt mọi
vật vào vị trí của nó và tạo cân bằng, duy trì kỉ luật và tác động bằng cách
nâng linh hồn lên, giống như bản anh hùng ca của Pindar (Nhà thơ Hi Lạp cổ 522
trước Công nguyên, hoặc Divina Commedia
-Thần khúc, hoặc nhạc của Bach, hoặc đền thờ Panthenon (Hi Lạp cổ) hoặc tranh của
Raffael.
Nghệ thuật phép thuật
là thứ nghệ thuật gợi tưởng đến bề sâu và phá vỡ sự cân bằng, tác động đến linh
hồn một cách kích động, như vở Faust,
hoặc những bản sonett của Beethoven, tranh của Van Gogh, tượng của Michelangelo.
Biểu tượng của nghệ thuật
Orfika là pha lê, còn của nghệ thuật phép thuật là dòng nước xoáy.
Orfika là câu nói sau
đây của Thánh Kinh: "Ban đầu Thượng
Đế tạo dựng lên trời và đất".
Phép thuật là câu nói
sau đây của Tolstoi: "Đời sống chỉ bắt
đầu khi con người không biết cái gì sẽ tới."
Khi Romeo làm quen với
Julia, và khi Hamlet gặp hồn của vua cha, cùng lúc và đột nhiên, trong một khoảnh
khắc họ từ trạng thái kiềm chế bước sang trạng thái kích động. Những mối quan hệ
trong sự tồn tại của họ biến đổi trong giây lát. Không sống trong tinh thể pha
lê nữa mà trong dòng nước xoáy. Thế giới
bị lật nhào, Shakespeare nói.
Đấy là chủ nghĩa kích động
(enthuziazmus), đấy là trí tưởng tượng
và niềm cảm hứng. Không bao giờ còn trật tự nữa. Tôi đã hiểu một điều gì tôi
không hiểu. Đời sống chỉ bắt đầu nếu tôi không biết cái gì sẽ xảy ra.
Romeo và Hamlet nhận ra
một điều gì đó có tính chất quyết định. Những người khác cân nhắc và tính toán
một cách sai lầm, họ thu hẹp, tàn úa và phủ nhận. Cái gì? Câu hỏi ngu ngốc. Cái
đang có. Hình như Romeo và Hamlet bị điên thật sự. Không đúng. Đời sống chỉ bắt
đầu khi con người không biết cái gì sẽ tới.
Sự tồn tại không có tác
dụng vỗ về. Tuyệt đối không nâng lên mà kích động. Con người đột nhiên tin rằng
nó có một khả năng mà nó không có. Không bao giờ còn trật tự bình an, và kỉ luật,
sự hài hòa, quyền lực kiềm chế nữa. Trái lại có một sự mê sảng, say đắm, một sự
gợi tưởng, và chủ nghĩa kích động, và phép thuật, và cảm hứng ngây ngất.
3
Bây giờ ta nói đến những
nhân vật lớn của sự sống người. Một nửa nguồn gốc của những nhân vật này, cứ
cho là người mẹ, là niềm cảm hứng của dòng nước xoáy. Hay ở nhân vật của
Shakespeare, cứ cho đấy là người cha.
Một từ ngữ cơ bản: vaulting ambition. Có thể dịch là sự
hãnh tiến, là bản năng quyền lực, là kẻ nuôi mộng lớn. Các nhân vật điên rồ nhất
của lịch sử là như vậy: Richard III, Macbeth, Antonius, Caesar và Coriolanus.
Bản năng quyền lực có một
logic đặc thù. "Befehlen ist
Seligkeit" (Ra lệnh là một hạnh phúc) như Goethe nói. Một sự ngây ngất
không diễn tả nổi, khi con người ra lệnh. Trở thành quyền lực. Có thể biến
thành kẻ say cuồng khi được ra lệnh.
Richard III chắc chắn
biết nhiều về điều này. Macbeth còn biết nhiều hơn. Nếu kẻ nào đứng chắn đường
họ, họ giết. Nhưng nếu ai biết về vụ giết người này, cần phải giết nốt kẻ ấy.
Máu, máu. Vẫn luôn luôn có kẻ đứng chắn đường và vẫn luôn luôn có kẻ biết một
điều gì đó, vẫn luôn luôn cần sợ một kẻ nào đó: cần phải giết tất cả. Đấy là vaulting ambition.
Giờ đây có quá nhiều kẻ
đứng chắn đường và cần phải sợ quá nhiều kẻ, bởi vậy không thể làm gì khác
ngoài việc giết, giết liên tục. Đấy là bản năng của quyền lực. Giết Duncan,
nhưng vì thế, cần phải giết cả Banquot, cần phải giết con người này bởi vậy cần
phải giết toàn bộ gia đình Macduff. Quyền lực rốt cuộc khi nào trở nên vững chắc?
Đấy là vaulting ambition.
Trong màn đầu tiên của
vở kịch Timon ở Athen của Shakespeare,
Timon sống trong sự điên cuồng của quyền lực, y giàu có, đầy thế lực, cai trị
và ra lệnh. Nhưng khi đánh mất gia tài, ngay phút ấy y bị tất cả mọi người bỏ
rơi. Đấy là nhân vật Timon ở Athen của Shakespeare, kẻ nhìn thấy không một tế
bào nào của thế giới lại không thẩm thấu cơn khát quyền lực.
Đến đoạn giữa của vở kịch,
khi Timon còn lại một mình, bị bỏ rơi, nghèo khổ, bị khinh bỉ, kẻ ăn mày trong
một khu rừng, y không là gì khác ngoài hình ảnh một sự phê phán thế giới điên
cuồng của quyền lực. "Tất cả xiên lệch, không có đường thẳng trong thế
gian xấu bẩn của chúng ta, chỉ có sự bất lương là thẳng". Y sống trong
hang đá, ăn rễ cây và nhảy múa làm trò chống lại vaulting ambition.
Đây là sự phê phán của
Macbeth và Richard III và Caesar.
Timon là: Madman so long, now a fool (Điên quá
lâu, bây giờ là kẻ ngốc).
Timon là cái quá độ duy
nhất có thể giữa tham vọng và một cái gì vượt qua tham vọng. Cái gì là cái vượt
qua tham vọng? Điên quá lâu, bây giờ là kẻ ngốc. Anh hề-Arlequin.
Là con người duy nhất
chiến thắng sự điên cuồng của quyền lực. Là kẻ duy nhất cầu nguyện cho người sống
trên thế gian bằng những lời lẽ khác thường: "the plague of company light upon you" (bệnh lây lan dân
chúng hãy rơi vào mày).
"Tao
chỉ có một niềm kiêu hãnh duy nhất: tao không phải là mày. Nếu tao trong sạch,
tao nhổ vào mày."
Đây đang nói về các
nhân vật lớn của nhân loại. Một nửa nguồn gốc của loại nhân vật này là sự ngây
ngất của dòng nước xoáy. Một nửa nguồn gốc của loại nhân vật này là sự chiến thắng,
sự hãm phanh nỗi điên cuồng của quyền lực "Điên
quá lâu, bây giờ là kẻ ngốc."
4
Bản
năng quyền lực tưởng rằng, trên đỉnh thế gian là ngai
vàng của Đấng Toàn Năng và nó muốn ngồi vào đó. Đồ ngu xuẩn. Tại sao anh hề lại
cười nhăn nhở? Bởi anh hề biết rằng Thượng Đế không ngồi trên ngai vàng. Ngai
vàng để đó.
Truyền thống cho rằng
Thượng Đế tạo ra ngai vàng trong ngày đầu tiên tạo dựng thế gian tại Araboth,
trên thiên đường cao nhất. Nhưng Ngài không bao giờ ngồi trong đó. Ngài cho
phép Sabbath - Ngày Lễ vào ngày thứ Bảy - được ngồi trên ngai vàng.
Cả Trái Đất chỉ anh hề
biết điều này.
Kẻ đầy tham vọng ngu xuẩn
tưởng Thượng Đế mình khoác áo choàng tay cầm thiên trượng ngồi trên ngai vàng,
và ra lệnh, với niềm tin: "Ra lệnh
là hạnh phúc". Chỉ những kẻ đầy tham vọng mới tin rằng ra lệnh là cảm
hứng ngất ngây lớn nhất trên trái đất.
Anh hề cười lăn lộn và
không giấu nổi sự giễu cợt. Nếu được dâng ngai vàng anh hề sẽ đặt lên đầu mình
cái mũ gắn chuông, sẽ cười hô hô hô, sẽ đứng lên cái tay vịn của ngai vàng và
chếch cái mũi dài ra khoe.
Thật khoái trá khi nhìn
những kẻ chạy xuôi ngược lưỡi thè lè tranh giành và giẫm đạp lên nhau, những kẻ
phản bội và sát thủ, những kẻ vàng vọt đến tận xương vì ghen tị và sôi lên vì
trả thù, thật là cảnh hài hước địa ngục cái gọi là lịch sử, với sự cuồng dại mất
trí vì ngai vàng, hay đúng hơn vì quyền lực.
Quyền lực thế gian
không phải là Thượng Đế mà là thần tượng. Ngai vàng! Quyền lực! Có thể nếu một
lần cần phải tự giải trí, Thượng Đế sẽ cho phép một kẻ nào đó ngồi lên ngai
vàng. Có thể ngài trao vai trò này cho một kẻ Chống Thiên Chúa. Sẽ cực kì hài
hước, ta sẽ tha hồ cười đến chừng nào hết chịu nổi.
Anh hề cười nhăn nhở.
Như thể cũng muốn ngồi lên ngai vàng, như hết thảy, và tin rằng có thể biến
thành kẻ độc tài và ra lệnh. Ra lệnh là hạnh
phúc.
Anh hề đứng ngoài tham
vọng. Chàng ta học được bài học từ Timon rằng trên thế gian này tất cả đều
cong, chỉ sự bất lương là thẳng. Nhưng anh hề không nhún nhảy. Anh hề đứng
ngoài tham vọng. Đứng ngoài lịch sử. Một con người không thay thế được. Kẻ không
có đôi.
Vua Lear già hiểu điều
đó, và ngài không thể thiếu chàng ta một giây. Khi anh hề không có đó, vua kêu
lên: Thằng điên của ta đâu? Chàng hề của ta đâu? Ê! Như thể cả thế giới ngủ
yên! Vua Lear già biết rằng không có sự yên ổn nào lớn hơn ở bên cạnh một kẻ chẳng
những không muốn ngồi lên ngai vàng, mà còn cười vào mũi những kẻ muốn đẩy hắn
lên ngôi.
"Anh
hề đây, châu báu đây" - Goethe đã nói.
Đây là châu báu giấu
kĩ, là tiếng cười dành cho thần tượng và những kẻ sùng bái thần tượng. Đây là
giọng cười lớn và khoái trá trên cái không là gì của bản năng quyền lực. Đây là
anh hề. "Chẳng há đây là một anh chàng không hiếm hoi, thưa ngài?" (He is as good as anything and yet a fool).
Đây là anh chàng hiếm
hoi nhất của thế gian và là một trong những nhân vật lớn của nhân loại. Một kẻ
vô cùng đặc biệt, như những kẻ điên khùng khác, như một anh hề - Arlequin.
5
Thân sinh của Arlequin -
anh hề, mẹ chàng, là cảm hứng của dòng nước xoáy. Đời sống chỉ bắt đầu, khi con
người không biết, cái gì sẽ đến. Thân sinh kia của Arlequin - anh hề, cha
chàng, là giọng cười dành cho bản năng quyền lực.
Điên đã lâu, giờ đây
thành đồ ngốc. Arlequin nói năng giống Romeo khi quen Julia, như Hamlet sau khi
đã gặp hồn ma của vua cha. Các mối quan hệ trong sự tồn tại của họ thay đổi. Họ
tạo ra những lối chơi chữ, sử dụng những từ ngữ quái gở, và còn quái gở hơn khi
sử dụng cái lưỡi, khi khoe cái mũi dài và lắc chuông đeo trên đỉnh mũ, vẫn giống
hệt những người khác, nhưng thêm vào tính chất điên.
"Thật
tai hại, khi một thằng điên không biết nói lấy một câu thông minh, khi bọn
thông minh điên rồ như thế."
Thế là đủ. Giờ đây ta cần
đi thẳng vào bản chất của vấn đề. Arlequin là một nhân vật chính của sự sống
con người và là một trong những anh chàng hiếm hoi nhất của thế gian. Tại sao?
Tại Arlequin là nghịch lí? Không. Hoàn toàn không như vậy.
Logic ngôn ngữ của
Arlequin là nghịch lí. Tại sao? Tại vì nó ngược đời? Giải thích như vậy quá ít.
Nhưng: đúng là Arlequin - anh hề nhận thức được rằng logic của sự tồn tại là
nghịch lí.
Trước tiên chàng ta từ
bỏ tình huống đấu tranh. Không tham dự cuộc tranh đấu vì quyền lực. Giọng cười
của chàng ta cũng là dấu hiệu của sự bất hợp tác này, như cái mũ đính chuông
leng keng và những câu tiếu lâm cùng những trò hề.
Arlequin không phải kẻ
đầy tham vọng. Chàng ta không buộc mình vào của cải, chức tước, lí thuyết, vào
ăn ngon mặc đẹp cũng không, chả thiết bất kì một loại nghề nghiệp hoặc tri thức
nào. Chàng ta không chinh phục bất cứ ai.
Arlequin - anh hề Tự
do. Bởi vậy chàng ta là một trong những nhân vật chính của sự sống và vì thế hiếm
hoi. Giọng cười của anh hề cũng là một dấu hiệu của tự do, giống như cách chơi
chữ và trò nhào lộn cùng giọng cười ha ha-hô hô. Một kẻ từ bỏ tình huống tranh
đấu, kẻ ngồi phệt giữa phiên chợ giời, và thiu thiu ngủ sau một trận quay cuồng
nhảy nhót, kẻ đó tồn tại trong một hoàn cảnh nghịch lí.
Ở Tây Tạng người ta nói
tinh thần giống như con lạc đà. Nếu định ghìm cương nó lại, nó sẽ chạy mười
phương cùng một lúc, nhưng nếu để mặc nó, nó không buồn động đậy.
Logic của tinh thần là
nghịch lí, bởi logic của sự tồn tại là nghịch lí.
Không ai dám sống một
mình, số đông phần lớn vì thế cố tham gia, cố hòa hợp, nịnh bợ, giải thích, mặc
cả, dối trá, kéo bè cánh, hùn hạp. Cộng đồng không được gây dựng do bản năng
huynh đệ, mà cộng đồng được tạo dựng cho cá nhân, bởi nỗi sợ hãi phải sống một
mình.
Không ai dám sống một
mình. Người ta nghĩ ra đủ trò để giữa họ có một cái gì chung với nhau. Họ bám
chặt vào nhau bằng cả mười đầu ngón tay, và cũng bằng cách ấy họ tách rời nhau
rất nhanh. Há chẳng đặc biệt sao? Nếu một người nào đó bảo mình đang cô độc,
trong một giây nỗi lo sợ đó biến mất vì trong một giây đó trong cộng đồng ai
cũng muốn gặp hắn.
Tại sao? Tại logic của
cộng đồng là nghịch lí như logic của sự đơn độc là nghịch lí, và logic của ngôn
ngữ là nghịch lí bởi logic của sự tồn tại là nghịch lí.
Linh hồn cũng nghịch
lí, bởi trong tận cùng sâu thẳm, nó không phải con thú mà là ngọn lửa trời
trong sạch. Lịch sử cũng nghịch lí, bởi thuở khai thiên lập địa không phải từng
có người rừng và loài vượn gorilla, mà từng có một thực thể mang trí tuệ phát
triển cao.
Sự sống con người và
các nguyên tử thực thể của nó là những sự trong sạch nguyên vẹn, giống như tư
tưởng và lương tâm đầu tiên, và tình yêu thương.
Nếu mi bắt mi chống lại
tính cách của chính mình, nó sẽ trả thù. Tính cách bị lăng mạ kiểu gì cũng trả
thù.
Nhưng nếu cưỡng bức chống
lại cái tinh thần của mi, nó không trả thù. Cái tinh thần bị lăng mạ im lặng,
im lặng sâu sắc, không động đậy, không trả lời, không lên tiếng, không ra hiệu,
và không trả thù. Đấy là sự trả thù của nó.
Tại sao? Tại logic của
tinh thần là nghịch lí. Arlequin sống trong nghịch lí này. Ở bên ngoài lịch sử,
hay nói đúng hơn ở giữa trọng tâm của lịch sử. Một cách khác thường, đồng nghĩa
với ý nghĩa logic nghịch lí, trong một số phận cho phép tưởng tượng ra thế nào
cũng được. Không có nghiệp, hay đúng hơn là thứ nghiệp mở đối với chàng ta. Prepared for all events - Chuẩn bị cho tất
cả các tình huống có thể. Trong không điểm, hay là điểm sôi. Tại sao? Tại logic
của sự sống là nghịch lí.
Con người giật mình nếu
thấy một kẻ khỏe mạnh, vui vẻ, vô tư, một kẻ thích cười đùa, trêu chọc, ăn
ngon, ngủ kĩ khiến họ không yên. Họ tưởng họ sẽ bị mất phần, nếu thấy một kẻ
sung sướng. Họ tưởng nếu có một kẻ sống mạnh mẽ hơn họ sẽ bị thiệt phần sống. Bởi
thế, cần phải ghen tị với nó, cần phải tiêu diệt nó. Bởi vì nó sống mất phần của
hàng trăm kẻ khác nữa.
Thực ra, ngược lại thì
đúng hơn. Nếu một kẻ nào đó sống tích cực hơn ta, những sức mạnh lớn hơn được
giải phóng từ người ấy khiến cuộc sống của ta cũng mạnh lên, sâu sắc hơn và
nâng cao hơn. Đời sống không thể hết. Không thể sống hết đời sống dành cả cho kẻ
khác nữa. Đời sống, càng cho đi nhiều bao nhiêu, sự sung túc của nó đổ về càng
tăng lên bấy nhiêu. Tôi sống càng tích cực bao nhiêu, tôi càng tạo nhiều khả
năng bấy nhiêu cho người khác cũng sống tích cực như thế, để sự xuất hiện những
con người mạnh mẽ, vô tư và khỏe khoắn cũng tăng lên bấy nhiêu.
Logic của đời sống là
nghịch lí, bởi logic của ngôn ngữ, của sự cô đơn, của cộng đồng, của số phận và
tinh thần là nghịch lí.
Cảm hứng của nhà thơ là
trạng thái tất nhiên của đời sống? Đúng. Chủ nghĩa kích động là trạng thái tất
nhiên của đời sống? Đúng. Tại sao? Bởi logic của sự sống là nghịch lí. Kẻ điên
là kẻ thông thái? Kẻ thông thái điên? Anh hề là kẻ thông thái? Đúng. "Thật tai hại, khi một thằng điên
không biết nói lấy một câu thông minh, khi bọn thông minh điên rồ như thế."
Không có thực thể nào
thông minh hơn một anh hề. Trạng thái bình thường của đời sống là sự điên rồ.
Tinh thể xoáy. Đúng ra mà nói, kẻ ăn nói đúng đắn nhất là kẻ mê sảng. Bởi vậy kẻ
bị bản năng quyền lực quắp lấy, tiêu phí cuộc đời vào đó, sẽ đánh mất toàn bộ.
Bởi vậy kẻ ngồi bệt bên đường quốc lộ và thiu thiu ngủ, kẻ đó thắng trọn vẹn.
Đời sống chỉ bắt đầu, nếu
con người không biết cái gì sẽ tới. Đời sống không có tác động vỗ về. Bởi vậy
Thượng Đế tạo ra ngai vàng nhưng không hề nghĩ đến việc ngự trên ngai vàng. Bởi
vậy Arlequin - anh hề cười nhăn nhở trên cả thế gian hài hước này.
Sự sống thể hiện theo
hướng kẻ nào định giữ nó lại thì nó bốc hơi trên tay kẻ đó, nếu đem gieo rắc khắp
nơi, sự sống giàu có sẽ ngả vào lòng nó. Thế gian không biết điều này.
Và bởi thế Goethe nói: Die Welt ein einzig grosser Tor - Thế
gian là thằng điên duy nhất, lớn nhất, Foolery
does walk about the orb, like the sun, it shines everywhere - Sự điên rồ dạo
chơi tự do trên thế gian, như mặt trời chiếu sáng khắp nơi.
Còn Arlequin - anh hề
là kẻ tỉnh táo duy nhất.
6
Tất nhiên nơi nào xuất
hiện một con người như vậy, nơi đó sẵn sàng cho một vụ bê bối. Nhân gian không
chút nghi ngờ gì về bản chất nghịch lí của sự sống. Chỉ ở những khía cạnh nhạy
cảm, người ta cảm thấy, có một cái gì đó không ổn trong toàn bộ.
Ví dụ người ta tưởng
nhiều là thế mạnh, mà không biết rằng một cái gì đó càng nhiều, càng yếu. Thế
gian tưởng điều được nhiều người nói, đấy là điều đúng. Ví dụ, vì tất cả mọi
người điên rồ nên một kẻ tỉnh táo, đấy là một thằng điên, cần phải đánh cho nó
một trận.
Cả thế gian không hề biết
rằng, họ nằm trong trạng thái phi- tồn tại đối với Arlequin - anh hề, như các
nhân vật khác của vở kịch so với Romeo và Hamlet Arlequin tồn tại, và những kẻ
khác so với chàng hề, không hề tồn tại.
Khi chiến tranh
Peloponnesos nổ ra ở Athen, thiên hạ ầm ầm chuẩn bị. Người ta hớt hải xuôi ngược,
phô trương vũ khí, dồn thúc đám đông, từ biệt lẫn nhau, kêu gào xô đẩy.
Arlequin - anh hề già có tên Diogenes thấy vậy bèn lăn một thùng đựng rượu trên
một đường phố chính. Lăn về phía trước mười vòng, lăn ngược về phía sau mười
vòng. Một cách cực kì hoan hỉ và mẫn cán.
Thằng
hề kia làm cái gì vậy? - Người ta hỏi. Tôi nhìn thấy mọi người hớt hải chuẩn bị -
Arlequin trả lời - tôi cũng không muốn bị
tụt hậu.
Logic của sự tồn tại là
nghịch lí. Khi Thượng Đế tạo ra con người, Ngài cũng tự thấy ngạc nhiên. Thượng
Đế nói: Ta đã tạo dựng trong thể xác nó
có cả tinh thần, bởi vậy trong tinh thần nó cũng có cả thể xác (Jacques
Benigne Bossuet viết)
Bản thân sự tồn tại
cùng lúc vừa là chủ thể vừa là đối tượng. Bởi vậy nó nghịch lí. Cái khoảnh khắc
con người chủ thể biến bản thân mình trở thành đối tượng, khoảnh khắc đấy là
ngôn ngữ. Bởi vậy nghịch lí là ngôn ngữ. Bởi vậy nghịch lí là cái tôi.
Tôi trong nhân danh tôi
là tôi, nhưng không phải vì tôi, không thế chỗ và không thay thế được tôi. Bất
kì ai cũng có thể làm bất cứ cái gì thay tôi, nhưng không ai tồn tại thay tôi
và không thể nói họ là tôi khi nhân danh tôi. Nhưng nếu tôi cho rằng tôi chính
là tôi, tôi sẽ đánh mất chính bản thân mình và sự tồn tại của tôi cũng mất.
Nhưng nếu tôi cho đi chính bản thân tôi, tôi sẽ thắng cuộc và sự sống của tôi
trở nên giàu có.
Không thể tưởng tượng
bê bối nào nhức nhối hơn khi Arlequin bước vào cái thế giới đầy tham vọng, giữa
buổi ăn mừng ánh hào quang giả dối của lũ sát thủ và quân phản bội. Toàn bộ những
Richard III, những Macbeth, những Caesar và Antonius đều sững sờ.
Một kẻ dám đến đây, kẻ
không hề có chút lí luận cũng như cái gọi là mục đích sống, kẻ không có ý định
trở thành một thị dân mẫu mực, kẻ cười vào đạo đức và không hề tôn trọng đám
giàu có lẫn đám có quyền lực. Thật là một kẻ kì quái!
Till Ulenspiegel, khi từ
trên núi xuống, khóc, bởi nghĩ rằng, cần phải đi lên, và khi đã đi lên, cười, bởi
nghĩ rằng sẽ lại phải đi xuống. Có thể làm gì với một kẻ điên-một anh hề như vậy?
Pie Đại đế bước đến gần
Diogenes và bảo: Hãy cầu xin một điều gì
đi, ta sẽ cho. Arlequin - anh hề già trả lời: Nhà ngươi hãy đứng sang một bên, đừng che mất bóng nắng.
Xua đuổi hề? Chàng ta
cười. Không cho hề ăn? Chàng ta cười. Chế nhạo hề? Chàng ta cười. Đánh cho hề một
trận? Chàng ta cười nhiều hơn. Khóa trái hề lại? Là lúc chàng ta cười khoái trá
nhất.
Cái gì vậy, tại sao lắm
kẻ sợ ta đến thế? Cả thành phố, cả một quốc gia sợ. Các vị vua, những cố vấn rậm
râu, các tướng lĩnh, cảnh sát và lũ giàu có, tất cả đều sợ anh hề. Các bà mẹ giấu
vội vã các cô con gái. Người ta hạ lệnh cho lũ con trai trốn xuống nhà kho. Các
nhà bác học bực bội, các vị linh mục quay lưng. Thật là bê bối. Tại sao vậy?