Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2020

Chủ đề nghệ thuật: Anh hề Arleyquin (trích mục 11)

Có một số tác phẩm hội họa lớn vẽ Arlequin - anh hề, ví dụ như của Picasso, của Schumann, hoặc Stravinskij, hoặc Velazquez. Anh hề một mình, có cái nhìn gần như trống rỗng. Đấy là cái nhìn không đối tượng, tượng trưng cho sự buồn bã, như không thấy gì, hoặc đúng hơn không nhìn thấy cái gì.

Anh hề không sợ. Vì đã quá điên hoặc linh hồn quá nghèo khó. Hay dùng từ khác: vô tư và là con số không. Không có gì để sợ. Nhưng sự buồn bã vẫn nằm trong anh hề, như điểm đối nghịch lí của tiếng cười của chàng ta.

Picasso vẽ cái nhìn trân trân vào không điểm này trong nhiều bức họa, ví dụ Anh hề áo đỏ, Hai Arlequin hoặc trong Ba nhạc sĩ. Nhưng gần như tất cả các họa sĩ chân chính đều quan tâm đến xiếc, như anh hề của Shakespeare, của Molière, của Aristophanes đều gắn với nhà hát vậy.

Stravinskij trong Petruska viết về điệu cười gắn với cái buồn sâu sắc của anh hề. Velazquez vẽ trong Những anh hề, Schumann trong Karneval và Papillons, trong Kreislieriana, và nhất là trong Novellette. Schumann còn đưa ra một lí thuyết trong đó anh hề và nỗi buồn sống cùng nhau, hai thực thể này ông đặt tên là Eusebius và Florestan.

Mùa của Arlequin - anh hề là lễ hội hóa trang. Anh hề là ông hoàng của lễ Karnevál- cũng là lễ Dionusos, khoảng thời gian nghịch lí và phép thuật trong năm, khi con người trong trang phục anh hề nhảy múa, cười hát, ăn uống tưng bừng.

Đây là chủ nghĩa kích động linh hồn của Karnevál và lễ hội Dionisios, khi nghịch lí phép thuật của sự sống nổ tung, tháo chạy ra đường phố, bằng một cách thức nguyên thủy nào đó cho phép con người không vì lí do gì hết cắn vào tai nhau.

Khẩu hiệu của Arlequin - anh hề lúc đó: God is in his heaven - all right with the world (Chừng nào Thượng Đế còn sống trên trời, chừng đó thế gian không có gì đáng sợ)

Nhưng chỉ sau chiếc mặt nạ, cần đeo mặt nạ lên để không ai nhìn thấy. Và sau cái mặt nạ là nỗi buồn bã, như dưới Eusebius là Florestan và như trên nét mặt các anh hề của Stravinskij, Velazquez và Picasso là nụ cười vô hình trân trân.

Logic của sự sống là nghịch lí bởi vậy sau tiếng cười là nỗi buồn để tiếng cười tồn tại, và sau anh hề là nỗi buồn như lửa và như dưỡng chất của sự tươi tỉnh. Nỗi buồn không hề là sự sợ hãi, sự run rẩy, không hề là nỗi lo âu và sự hoảng hốt. Nỗi buồn là nỗi buồn, là thứ không thể nhầm với bất kỳ cái gì, như một cái tên bí ẩn và không thể xướng lên.

Nỗi buồn và sự huyền bí của anh hề. Ai không buồn, không thể là một anh hề chính cống. Không biết cách để trở nên dễ thương và nhẹ nhõm. Không biết cách trở thành Thánh Assisi Ferenc, hay chàng điên của Trung Quốc hay Pantagruel và Till Ulenspiegel.

Kì diệu làm sao khi cả hai đặc tính này nằm trong phép mầu của nghịch lí, cùng lúc với điệu cười hô hô-ha ha và nỗi buồn sâu sắc đến tận tủy. Kẻ nào không biết đến nỗi buồn, kẻ đó không thể vô tư, không biết nhảy nhót và tạo ra những lối chơi chữ, và chế nhạo mọi đế vương.

Nỗi buồn biến anh hề thành kẻ không biết sợ. Thành con số không. Bởi vì ta chỉ trở thành quyền lực khi ta chẳng là gì hết. Nỗi buồn biến anh hề thành con trẻ, thành niềm vui, thành linh hồn nghèo khó.

Tươi tỉnh là sự kì diệu lớn nhất của thế gian. Khi tươi tỉnh tồn tại từ nỗi buồn, nó còn là sự kì diệu lớn hơn nữa. Đấy là nghịch lí hấp dẫn nhất của sự sống, là tri thức cao nhất của Arlequin - anh hề.
- Một giọt từ sự đọa đày (20 tiểu luận triết học)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khái niệm về Anima (ẩn nữ) của đàn ông theo Carl Jung

Carl Gustav Jung   (26/7/1875 - 6/6/1961) là một bác sĩ tâm lý học, tâm thần học người Thụy Sĩ. Nổi tiếng với việc thành lậ...