Tôi thấy đây là một bài viết hay,
vậy mà khá ít người tiếp cận nó nên tôi xin phép được chia sẻ.
Vũ trụ học là một khoa học còn rất non
trẻ. Ngay cả khi Einstein đã đưa ra thuyết hấp dẫn năm 1916, bằng chứng thực
nghiệm duy nhất về nguồn gốc vũ trụ chỉ là bầu trời ban đêm tối đen. Nghịch lý
Olbers (1823) cho rằng nếu vũ trụ vô tận trong không thời gian thì nó có nhiều
sao đến mức khi nhìn lên bầu trời theo bất cứ hướng nào, tia mắt ta bao giờ
cũng gặp một ngôi sao. Và ta sẽ thấy bầu trời luôn sáng rực như mặt trời, ngay
cả vào ban đêm.
Thuyết Big Bang tiêu chuẩn
Nhưng thực tế bầu trời ban đêm lại tối
đen. Thật thú vị là trong bài thơ văn xuôi dài Eureka năm 1848, Edgar Poe (cha
đẻ của truyện trinh thám) cho rằng, đó là do các ngôi sao chưa đủ thời gian để
chiếu sáng toàn vũ trụ. Vậy bầu trời đêm tối đen chứng tỏ vũ trụ hữu hạn cả
trong không gian và thời gian. Không chỉ đứng vững trước thử thách của thời
gian mà giả thuyết còn đóng vai trò quyết định trong việc hình thành lý thuyết
Big Bang.
Cơ sở lý luận của Big Bang là thuyết
tương đối tổng quát, cho rằng không thời gian không phải là cái nền cố định để
mọi biến dịch vũ trụ diễn ra trên đó, mà là các đại lượng động lực, phụ thuộc
vật chất đồng thời chi phối vật chất. Điều đó dẫn tới việc không thời gian và
do đó vũ trụ có thể có khởi đầu và kết thúc, một ý tưởng mà ban đầu chính
Einstein cũng tìm cách chống lại.
Bằng chứng quyết định là phát hiện vũ
trụ giãn nở của Hubble (Mỹ) những năm 20 của thế kỷ trước. Cho đến lúc đó, dải
Ngân hà của chúng ta được xem là toàn bộ vũ trụ. Với viễn kính 100 inch tại núi
Wilson, Hubble thấy Tinh vân tiên nữ, một thiên hà sánh đôi cách 2 triệu năm
ánh sáng, đang tiến lại gần chúng ta. Khảo sát các thiên hà khác, ông thấy
chúng đang tản ra xa. Điều đó có nghĩa vũ trụ gồm hàng tỉ thiên hà đang tản xa
nhau.
Vũ trụ hiện đang giãn nở và các thiên
hà ngày càng xa nhau chứng tỏ trong quá khứ chúng gần nhau, khi vũ trụ có kích
thước nhỏ hơn. Suy diễn ngược thời gian mãi sẽ đi đến thời điểm khai sinh, khi
toàn vũ trụ tập trung tại một điểm, nơi có mật độ và độ cong không thời gian vô
hạn. Và một vụ bùng nổ 13,7 tỉ năm trước đã khiến vũ trụ sinh thành. Đó là mô
hình Big Bang tiêu chuẩn.
Năm 1946, nhà vật lý Mỹ gốc Nga Gamow
thấy rằng, ngọn lửa sáng thế buổi hồng hoang vẫn để lại “vết lông ngỗng” qua
bức xạ tàn dư trải trên toàn vũ trụ, nay lạnh chỉ còn cỡ 30 trên 00 tuyệt đối.
Năm 1965, hai kỹ sư vô tuyến Penzias và Wilson tình cờ phát hiện được bức xạ
này khi chế tạo một ăngten có thể bắt sóng từ vệ tinh. Như từng xảy ra trong
lịch sử, giải Nobel danh giá được trao cho phát kiến tình cờ của hai người khá
ngoại đạo! Năm 1992, vệ tinh COBE (Mỹ) đo được phông bức xạ này với độ chính
xác rất cao. Và Big Bang được thừa nhận rộng rãi.
Khá hài hước là cái tên Big Bang lại
do nhà thiên văn Hoyle đặt ra năm 1950 trong loạt bài Nguồn gốc vũ trụ trên Đài
BBC để chế diễu lý thuyết. Ông là người đề xuất thuyết vũ trụ dừng năm 1948,
theo đó vũ trụ không có khởi đầu và kết thúc. Sau khám phá bức xạ tàn dư, nó đã
chết vẻ vang như nhiều lý thuyết khoa học khác.
Big Bang từ đâu xuất hiện? Có giả
thuyết cho rằng Vụ nổ lớn là kết quả của Vụ co lớn (Big Crunch) trước đó, khi
lực hấp dẫn thắng dần sự giãn nở và vũ trụ bắt đầu co về một điểm. Nói cách
khác Big Bang là điểm chuyển pha giữa các pha co giãn xen kẽ nhau của vũ trụ.
Nhược điểm chí tử của mô hình trên là
bài toán kì dị. Tại Big Bang, do kích thước nhỏ vô hạn, nên mật độ năng lượng
hay độ cong không thời gian lớn vô hạn, điều không có trên thực tế. Đó là vì
thuyết tương đối tổng quát là lý thuyết về các hiện tượng vĩ mô, nên không mô
tả các thăng giáng lượng tử đặc trưng cho thế giới vi mô. Với Vụ nổ lớn hay lỗ
đen, là các thực tại vật lý vừa nhỏ (nơi các hiệu ứng lượng tử chi phối), vừa
nặng (nơi các hiệu ứng hấp dẫn chi phối), cần một lý thuyết thống nhất giữa
thuyết lượng tử và thuyết tương đối. Đó là thuyết hấp dẫn lượng tử.
Lý thuyết dây và Big Bang
Trong số các thuyết hấp dẫn lượng tử,
lý thuyết Dây là một trong hai tiếp cận khả quan nhất, cùng thuyết hấp dẫn
lượng tử vòng. Quan điểm truyền thống xem hạt cơ bản là chất điểm không kích
thước. Và đó chính là lý do xuất hiện các giá trị lớn vô cùng. Lý thuyết Dây
tránh điều đó bằng cách giả thuyết bản thể vũ trụ là dây một chiều, màng hai
chiều hay các thực thể nhiều chiều hơn. Chúng có kích thước rất nhỏ, nhưng
không bằng không (lớn gấp 10 lần độ dài Planck, 10-33cm, là kích thước nhỏ nhất
còn có ý nghĩa vật lý).
Giống sợi dây đàn dao động sẽ tạo ra
các nốt nhạc, dây hay màng dao động trong không thời gian 11 chiều sẽ tạo ra
mọi hạt cơ bản đã biết và chưa biết. Trong khi thuyết tương đối cho rằng vũ trụ
có thể có kích thước zero; lý thuyết Dây cho rằng độ dài Planck là kích thước
giới hạn của vũ trụ, vì đã chứng minh được rằng, các quy luật của thế giới dưới
thang Planck hoàn toàn giống các quy luật của thế giới trên thang Planck. Nói
cách khác vũ trụ vi mô hoàn toàn đồng nhất với vũ trụ vĩ mô, mà kích thước
Planck chính là ranh giới.
Lý thuyết Dây đưa ra hai kịch bản khác
kịch bản của thuyết tương đối. Đó là thuyết tiền Big Bang và thuyết màng va
chạm.
Thuyết tiền Big Bang do nhà vật lý Ý
Veneziano, cha đẻ của lý thuyết Dây, đưa ra năm 1991. Theo đó trong một vũ trụ
vẫn đang tồn tại, có một vùng lực hấp dẫn đủ mạnh để hút vật chất co về Vụ co
lớn. Khi Vụ co lớn đạt kích thước Planck thì nó bùng nổ thành Vụ nổ lớn. Và vũ
trụ của chúng ta chính là một vụ nổ như thế khoảng 13,7 tỉ năm trước. Đó là một
đơn vũ trụ (universe) tự thân co giãn trong một đa vũ trụ (multiverse), thuật
ngữ của nhà thiên văn Anh mang tước hiệp sĩ Martin Rees.
Năm 2001, năm nhà khoa học Anh - Mỹ,
đứng đầu là Steinhardt và Turok, đưa ra mô hình khác cũng dựa trên lý thuyết Dây.
Theo đó vũ trụ chúng ta là một màng đa chiều trôi trong không gian nhiều chiều
hơn. Vụ nổ lớn 13,7 tỉ năm trước chính là cú va chạm giữa màng của chúng ta với
một màng khác nằm song song theo chiều dư. Va chạm có thể xảy ra nhiều lần,
trước va chạm hai màng co lại, sau va chạm hai màng giãn nở, như Hubble đã
thấy.
Một ưu điểm của mô hình tiền Big Bang
là vũ trụ chúng ta có thể tự co giãn, trong khi mô hình va chạm cần thêm vũ trụ
song song. Ngược lại, một ưu điểm của thuyết màng va chạm là giải quyết được
bài toán vật chất và năng lượng tối nan giải. Đó chính là vật chất thông thường
ở màng bên cạnh mà ta không “thấy” gì ngoài lực hấp dẫn.
Phải chăng đó chỉ là những giả thuyết
không thể kiểm chứng? Không phải như vậy, ba kịch bản trên đều đưa ra tiên đoán
về mật độ năng lượng và tần số sóng hấp dẫn. Trong vòng 10 năm tới, các vệ tinh
Planck, LIGO và VIRGO sẽ được phóng lên quỹ đạo nhằm thu thập số liệu. Khi đó
hoặc một kịch bản vượt vũ môn, hoặc cả ba đều thất bại. Và khoa học sẽ phải tìm
một mô hình vũ trụ mới.
Đa vũ trụ ra đời như thế nào?
Trên đây là ba kịch bản ra đời của vũ
trụ của chúng ta. Vậy đa vũ trụ xuất hiện từ đâu và xuất hiện như thế nào? Câu
trả lời là đa vũ trụ xuất hiện từ hư vô do nguyên lý bất định. Theo quan điểm
vật lý, hư vô không phải là không có gì, mà chứa đầy các thăng giáng lượng tử
xuất hiện do nguyên lý bất định Heisenberg.
Nguyên lý này nói rằng, giá trị tuyệt
đối và thăng giáng của các trường vật lý không thể xác định chính xác đồng
thời. Nên các trường phải luôn thăng giáng quanh giá trị zero, vì nếu trường
bằng zero thì thăng giáng của nó cũng bằng zero. Có nghĩa giá trị và thăng
giáng của trường lại chính xác đồng thời (đều bằng zero). Đó là điều nguyên lý
bất định cấm, nên trường phải khác không và luôn thăng giáng. Điều đó có nghĩa
các “bọt năng lượng” luôn sinh ra và mất đi. Và một số bọt có thể thăng giáng
đủ mạnh để giãn nở và trở thành các đơn vũ trụ như vũ trụ của chúng ta.
Như vậy, các đơn vũ trụ có thể sinh
thành và tan vỡ không ngừng như trong trò thổi bong bóng xà phòng. Còn đa vũ
trụ thì sao? Câu trả lời liên quan với tổng năng lượng. Năng lượng chứa trong
vật chất là dương, còn năng lượng hấp dẫn giữa chúng là âm. Nếu đa vũ trụ là
“phẳng” trong không thời gian đa chiều, giá trị hai năng lượng bằng nhau và
tổng năng lượng toàn vũ trụ bằng không. Và nguyên lý bất định cho phép nó tồn
tại mãi mãi. Vẫn hiện hữu mà vẫn lại là số không, vũ trụ chính là biểu hiện của
triết lý sắc sắc không không của đạo Phật, ít ra là về ngôn ngữ.
Vậy tại sao lại có hư vô và nguyên lý
bất định để vũ trụ tự sinh tự diệt? Người viết bài này cho rằng khoa học không
thể đưa ra lời giải đáp. Và đó là một trong những lý do tồn tại vĩnh hằng của
nghệ thuật hay tôn giáo.
Nguồn:
chungta.com, 29/03/2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét