Bình luận 1
Creation of Adam: Michelangelo, Sistine Chapel, Vatican Palaces in Rome, 1512 |
Bắt đầu với nhan đề
của Chương XIII trong cuốn Corpus Hermeticum: “Bài giảng trên Núi Thần bí”. Người ta gọi là bài giảng trên Núi,
cho dù chẳng có núi nào ở đây, truyền thống thường biểu hiện sự nhập định của
người học trò bằng hình ảnh tượng trưng gắn với Núi Thiêng “Epi tes tou orous metabaseos”.
Núi ở Hi Lạp là Olimpiek, ở phương đông là Sinai,
Tabor, ở Iran là Albodj, ở Ấn Độ là Meru. Người ta thường gọi là Núi Thiêng của
châu Âu, của Tây tạng, của da đỏ châu Mĩ.
Hai nhân vật của cuộc đối
thoại: Toth và Hermes. Kẻ trước là học trò, người sau là thầy. Hermes là nhân
vật đã Hi Lạp hóa của một cái tên Ai Cập cổ. Về nhân vật này chỉ cần ghi nhớ
dường như thời cổ người ta hay cho rằng Hermes xuất thân từ dân tộc Seth. Là con
trai thứ ba của Seth Adam và Eva, là nhánh thứ ba của nhân loại đầu tiên.
Cain là con người trần
thế, là sinh linh thức tỉnh từ bên dưới đi lên, giống như sau này phái Ngộ đạo
dạy: là nhà thờ thoái hóa. Nhà thờ (ekklésia)
không được hiểu như một đám đông mà như một cộng đồng tâm linh đã được chọn
lựa.
Những cách gọi lâu đời
này gần như không có ngoại lệ, trong mọi trường hợp đều nói đến các hiện sinh
tâm linh, ví dụ: politheia không có
nghĩa là nhà nước, mà theo ngôn ngữ ngày nay: là tâm lí tập thể (kollektiv psyche).
Cain là hình ảnh tượng
trưng của tâm linh bị hư hỏng của con người thế gian, con người vật chất mà làn
khói, làn hơi thở mang tính chất nạn nhân hướng xuống lòng đất. Abel là con
người từ trên cao đi xuống, là hình ảnh tượng trưng của nhà thờ trời. Tội ác
giết người của Cain trong các thời gian cổ chỉ ra sự kiện phạm pháp của nhân
loại nguyên thủy, khi con người vật chất đã chiến thắng người trời.
Seth, con trai thứ ba
không đến từ trên cao hay từ lòng đất mà là một con người thật sự, không phải
quỷ, cũng không phải thiên thần mà là con người, một thực thể bậc trung, hình
ảnh tượng trưng của nhân loại. Trong Seth, dù vật chất cai trị, nhưng kí ức về
những huyền bí lớn mang theo từ thế giới tinh thần vẫn còn sống động. Thế hệ
của Seth không chất chứa những đặc tính Thần của Abel, nhưng cũng không mang
nỗi đam mê máu-thịt tăm tối và thèm khát, tính chất vật chất hóa nặng nề của
Cain.
Các thế hệ của Seth quay
trở lại với thế giới của Adam Kadmon - những người thầy và những kẻ đi thức
tỉnh của nhân loại. Các nhà tiên tri, các nhà lập pháp, các giáo chủ, các
trưởng tộc. Đại diện nổi bật nhất của thế hệ Seth là Henoch, nhà tiên tri khải
huyền.
Thế hệ của Seth là thế hệ
lãnh đạo trên con đường Ánh Sáng “Trên
con đường này bản thân dạy dỗ không quan trọng, mà là sự chuyển đổi bên trong
không thể lường trước, thức tỉnh do sự dạy dỗ”. Seth một mình mang theo tri
thức “Bằng hành động, hiện thực, hình ảnh
tượng trưng không đếm xuể quay trở về MỘT, và bằng tri thức này cảm nhận nổi
con người đánh mất gì, nếu sống ngoài MỘT”.
Không được phép hiểu
những cái tên Cain, Abel, Seth như các cá nhân, con người lịch sử cá nhân càng
không được phép. Những cái tên giống như ngôn từ, không ngoại lệ, đều để đánh
dấu các hiện sinh huyền bí.
Manu ở người Hindu,
Buddha, Bodhisattva, Tulku ở Ấn Độ và Tây Tạng, Zarathustra ở Iran, Toth và
Hermes ở Hi Lạp đều từng là các hiện sinh huyền bí, không phải là cái Tôi lịch
sử. Con người lịch sử đã nhân cách hóa các hiện sinh này. Các hiện sinh này
nhập thể vào con người. Nhập thể của Cain, Abel, Seth không có nghĩa là các cái
Tôi cá nhân hóa của những đứa con của Adam và Eva tái sinh, mà có nghĩa là hiện
sinh tinh thần cổ và vĩnh cửu một lần nữa mang hình dạng trần thế trong thực
thể người.
Hermes, như một người
thầy của truyền thống Ai Cập vô cùng cổ xưa, xuất thân từ các thế hệ của Seth,
và sau nạn hồng thủy là kẻ đã cứu tri thức cổ trước tai họa vũ trụ, là người
đầu tiên giảng dạy tri thức cổ này. Từ đó đến nay Hermes trở thành hình ảnh
tượng trưng của hiện sinh huyền bí như Seth: là kẻ nhập định, kẻ tiếp tục
truyền bá tri thức Hermes cổ, Hermes đã nhập thể.
Trong Lời Đối Thoại,
Hermes đã dẫn dắt học trò Toth lên núi Thiêng nhập định, cốt lõi của lời dạy
dỗ: sự tái sinh.
Lời Đối Thoại là cấp độ
duy nhất của sự nhận định. Trước quá trình quyết định này, là những bàn luận về
sự cần thiết phải đắm chìm vào suy tư, sự trong sạch của đạo đức, và sau cùng
người học trò cần đưa mắt nhìn vào thế giới bên trong của mình. Đây là bước
chuyển hóa (metanoia). Thực ra việc
tự đánh giá nỗi suy tư chìm đắm, kỉ luật đạo đức ngặt nghèo không có. Tất cả
chỉ tạo ra khả năng đưa con người bước qua, đi qua metathésis, chuyển đổi từ thế giới vật chất sang thế giới tinh
thần.
Sự giác ngộ phụ thuộc vào
sự trong sạch của các tầng chăn bao phủ thực thể người: cần nhìn thấu suốt bến
mê và ảo ảnh. Cần sống trong sạch về mặt đạo đức vì thế.
Porphürios nói: Thần không xuất hiện chừng nào linh hồn chưa
trong sạch, hay chừng nào con người tự mình chưa xua đuổi ma quỷ đi.
Sự tiếp nhận đạo đức
trong sạch, trinh nguyên, lối sống khổ hạnh khiến mối quan hệ giữa con người và
thiên nhiên vật chất không còn căng thẳng, và để con người nhạy cảm hơn với
những kinh nghiệm siêu nhiên. Mục đích: cần sự nhạy cảm. Bởi vậy Thánh Phao-lô trong
Lá thư gửi những người Do Thái đã viết: hãy
gắn chặt với niềm tin.
Ngày nay người ta sử dụng
nhầm lẫn một cách cơ bản từ “niềm tin”, làm đảo lộn đến tận cùng toàn bộ các
tôn giáo từ hàng thế kỉ nay. Niềm tin không phải một hoạt động tri thức hay cảm
xúc hoặc bất kì một hoạt động tinh thần hay linh hồn nào của con người: mà niềm
tin là kinh nghiệm siêu nhiên và là sự nhạy cảm siêu nhiên.
“Niềm tin không đối chọi với tri thức - theo thánh
Saint-Martin - niềm tin là một cử chỉ
phép thuật, không phải là tri thức”.
Niềm tin là một tâm trạng
siêu nhiên, là sự nhạy cảm, sự cởi mở và khả năng siêu nhiên giúp con người
hiểu biết thêm về những thế giới siêu vật chất. Bởi vậy từ Hi Lạp pisztisz - niềm tin - không dở nhưng
cũng không diễn tả được điều này.
Thánh Phao-lô từng dạy dỗ
về một niềm tin mang lại phúc lạc, có liên quan đến tâm trạng siêu nhiên, không
kêu gọi sự mù quáng. Niềm tin là một kinh nghiệm cao cả hơn tạo khả năng cho con
người chuyển hóa, biến động, tạo ra một bước ngoặt lớn.
Bởi vậy Thánh
Saint-Martin cho rằng niềm tin là phép thuật. Là bước chuyển trong tín đồ, từng
bị cất giấu nhưng mang tính chất quyết định, bởi vì: “Kẻ được niềm tin chỉ đường đi về phía Thượng Đế, kẻ đó cần thay đổi hoàn toàn
đến tận từng tế bào vật lí”.
Đối với hạt nhận thức thì niềm tin chính là một thứ ta đi theo, tất cả đều đi tìm chân lý của riêng mình, và chân lý lớn nhất chính là bao gồm những chân lý riêng ấy, -chân lý tuyệt đối. Đó cũng là Đạo, và đó cũng là MỘT. Vạn vật là tương đối, Thế Giới chỉ có MỘT thứ tuyệt đối duy nhất, và MỘT là Thế Giới.
Trả lờiXóaSự tương đối chỉ áp dụng cho mọi thứ trong Thế Giới, không áp dụng cho Thế Giới, vậy Thế Giới là tuyệt đối, hoặc có lẽ là một thứ tương đối của Thế Giới lớn hơn?
Tôn giáo, tín ngưỡng, đức tin chung, và cuối cùng, niềm tin của hạt nhận thức.
Trả lờiXóa