“Minh triết thiêng liêng (theosophy) là gì?
Lý tưởng của bạn là gì?
Bạn muốn một thế giới như thế nào?
Thế giới là gì trong mắt của bạn?”
...
“Những người tìm kiếm, chúng ta đều đang tìm kiếm điều gì đó. Bạn là người tinh khôn (Homo sapiens)? Bạn, tôi, chúng ta đều không khôn như ta tưởng, chúng ta là những người tìm kiếm (Homo quaeritans) đang cùng nhau tiến đến sự thật cuối cùng.”- Inventsity G.Espace
Bình luận 2
Bước ngoặt lớn của sự
nhập định: quay vào bên trong. Trí thức của sự chuẩn bị này: ấn tượng về MỘT.
Kẻ học trò cần hiểu về MỘT như một hiện thực bất biến, không thể đổi thay, vĩnh
cửu, không bao giờ mất đi.
Những câu lập luận về
bản chất vĩnh cửu bất biến của MỘT có thể bắt gặp trong các chương của kinh
Veda nói về Atman, trong Kinh Dịch nói về dương, trong Đạo Đức Kinh nói về đạo,
trong kinh Kabbala nói về một hay về alef.
Khi ấn tượng về MỘT
tương đối mạnh, một tia sáng mờ nhạt bắt đầu le lói trong tinh thần kẻ học trò
rằng, thiên hình vạn trạng của cảm giác nhìn bằng mắt trần là một ảo thuật thật
sự. Hiện thực chỉ có: MỘT. Trong giây phút ấy nó kêu lên: “con nhìn thấy toàn bộ, con nhìn thấy bản thân trong cái vĩnh cửu”.
Lúc đó Hermes lên tiếng: “Con trai ta,
đấy là sự hồi sinh”.
Sự nhập định không bắt
đầu bằng lập luận này, cũng như không kết thúc bằng điều đó. Bước ngoặt lớn
nhất của quá trình quay vào trong là ngưỡng quyết định. Nhưng đây không phải
ngưỡng đầu tiên và cũng không phải là cuối cùng.
Thực ra giờ đây sự sống mới bắt đầu. Là “Niềm tin”. Sự nhạy cảm siêu nhiên giờ
đây thức tỉnh. Kẻ học trò giờ đây mới phá tung đời sống bị khóa kín và bước vào
sự sống mở.
Bước đầu tiên của kĩ
thuật phép mầu nhập định là kẻ học trò hướng toàn bộ sự chú ý của nó đến một
điểm nằm bên ngoài thế gian (extramundális).
Có nghĩa là: nếu tri thức con người dưới
tác động của sự tập trung và kỉ luật có chủ ý ngày càng tăng, trong một khoảnh
khắc nó sẽ đứt rời khỏi hiện thực giác quan, và cần phải có một cái gì đó cho
nó bám lấy.
Cần tới một điểm ngoài
thế gian bởi vì chỉ những gì thật sự nằm ngoài thế giới giác quan mới gắn bó
với con người. “Chỉ cái gì hoàn toàn khác
biệt với cái Tôi mới có thể giải phóng và giải phóng nổi con người”. Ý
nghĩa của khoảnh khắc này bất tử, mang tính bản chất, quyết định, và sâu sắc
đối với toàn bộ số phận con người.
Bởi trong con người tri
thức giải thoát này không phải một tri thức từ trước tới nay xa lạ chưa từng
biết đến, mà là “một tri thức được ghi
trong bầu khí quyển eter”, một tri thức đã xác định mà Hermes Trismegistos
đã “viết vào bầu khí quyển eter”.
Linh hồn trong tri thức
này nhận ra cội nguồn và hiện thực đích thực của bản chất mình. Nó thức tỉnh
rằng: “Con người chỉ là bản sao, bản gốc
chính là: Thượng Đế”. Đây là tri thức thiêng liêng, là khoa học thiêng
liêng. Đây là sự bắt đầu và kết thúc, là thực chất, là ý nghĩa của mọi sự nhập
định.
Đây là điều ở Ấn Độ
người ta gọi là adhjátma-vidja.
Manu nói: “Kẻ nào không biết tri thức này, nó trống
rỗng trong mọi hành động và tư tưởng... Chỉ kẻ nào biết tri thức này, kẻ đó có
thể chỉ huy có hiệu quả quân đội, có thể kết án một cách quang minh, có thể cai
trị một cách anh minh”.
Trong giây phút hiện tại
chỉ có ngần này thứ cần còn lại: là kỉ luật tự thân, sự từ bỏ, chay tịnh, thực
hành khổ hạnh, lời cầu nguyện, thiền định và các hoạt động chuẩn bị sự nhập
định, là những thứ những kẻ theo thuật giả kim gọi là lửa; tiếng Sancrit gọi là
tapas, ngọn lửa tự phủ nhận bản thân.
Cuộc sống khổ hạnh không
là gì khác ngoài sự thức tỉnh của nguyên tố lửa vũ trụ. Lửa “tạo lập” các sự
vật trong vũ trụ, lửa của Herakleitos và Jakob Böhme, hay đúng hơn, chính là
logos - nguyên tố tạo dựng các thế gian.
Trong bản thân kẻ khổ
hạnh ngọn lửa cháy bùng lên và bắt đầu tiêu hóa nó. Trong quá trình này nó
hướng toàn bộ sức lực của mình vào một điểm độc lập với thế gian. Điểm này là
hình ảnh cổ ban đầu (elemental).
Hình ảnh cổ này là nước
của Thales, là apeiron của Anaximandros, là con số của Pythagoras, là trung của
Khổng tử, là đạo của Lão tử. Lịch sử triết học gọi những hình ảnh cổ, điểm
ngoài thế gian là lí thuyết cơ bản. Thực ra, không có lí thuyết cơ bản nào ở
đây. Các hình ảnh cổ không phải là lí thuyết mà là các ý nghĩa.
Và các ý nghĩa không
đứng riêng tách rời: “Mọi ý nghĩa giữ
trong bản thân nó cái toàn bộ khác” (Saint-Martin). Những hình ảnh cổ ban
đầu là các logos, hay như người Hindu gọi:
mahavakja, những ngôn từ lớn của sự thông thái, các nguyên tử tạo hóa,
hieroi logoi, như nhóm Pythagoras khẳng định. Là tư tưởng: “Lửa Thiêng”.
Không phải là những lí
thuyết bởi chúng không tách rời nhau, không mang đặc tính độc lập và riêng
biệt. Ý nghĩa của chúng chỉ cùng có trong “sự
toàn hảo của sự vật” (pléroma), bởi sự toàn hảo của sự vật là ở nơi tất cả
các ý tưởng của thế gian, nguyên tượng của tất cả vũ trụ tinh thần (intelligibilis kozmos) cùng tồn tại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét