Thứ Ba, 16 tháng 11, 2021

Đạo bất đồng bất tương vi mưu (share)

Đọc thêm tại: https://daoduckinh.com/dao-bat-dong-bat-tuong-vi-muu/

Giải nghĩa câu: “Đạo bất đồng bất tương vi mưu ”

Câu này có xuất xứ trong Luận Ngữ, Chương Vệ Linh Công, nguyên văn như sau子曰:‘道不同,不相为谋’ (Tử viết: Đạo bất đồng bất tương vi mưu)

Câu này có một số cách hiểu như sau:
1. Không cùng chí hướng thì không thể cùng nhau mưu sự nghiệp được. Nghĩa này giống câu: chim sẻ sao biết được chí chim hồng.

2. Tư tưởng, quan niệm khác nhau thì không cùng nhau bàn luận trao đổi được. Nghĩa này thường gặp các tư tưởng tôn giáo khác nhau luôn chê bai đả kích lẫn nhau.

3. Nghề nghiệp khác nhau không thể đàm đạo cùng nhau được.

VD: bác nông dân thì chỉ biết nói chuyện về lúa ngô khoai sắn, anh thợ sửa xe thì chỉ biết nói chuyện về bu-gi bu-lông ốc vít, 2 người ngồi với nhau không có tiếng nói chung, không thể đàm đạo được.

Nói chung nghĩa 1 là phổ biến nhất, dùng rộng rãi nhất.

Ý nói người không cùng quan điểm, chí hướng thì không thiểu nói chuyện, thương lượng hay đàm đạo được.

Người xưa nói, phàm là chuyện lớn muốn được thành công thì đều phải chung một 1 đích, Nhưng nếu cố chấp để coi rằng mục tiêu đó là chung mà cố làm thì ắt sẽ gây ra đại họa, đau khổ và bất hạnh đến nhau. Đó là ý nghĩa câu này.

Cũng như, nhớ về câu chuyện người xưa vẫn kể cuộc gặp gỡ giữa 2 vị thánh nhân Khổng tử và Lão Tử:


Vào một ngày trong năm 538 trước công nguyên, Khổng Tử nói với đệ tử là Nam Công Kính Thúc rằng mình muốn đi bái kiến Lão Tử. Hiển nhiên, đề nghị này của Khổng Tử được Nam Công Kính Thúc đồng ý, đồng thời lập tức báo lên quốc vương của nước Lỗ.

Vua Lỗ cho phép ông đi, đồng thười bố trí cho ông một xe, 2 ngựa kéo và đoàn người tháp tùng, Nam Công Kính Thúc cũng đi cùng Khổng Tử chuyến này.

Thấy Khổng Tử vượt ngàn dặm xa xôi đến thăm mình, Lão Tử vô cùng phấn khởi.

Ông hỏi Khổng Tử rằng: “Ông đã đắc Đạo rồi chứ?”

Khổng Tử trả lời: “Tôi đã cầu suốt 27 năm nay nhưng vẫn chưa đắc Đạo.”

Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ gì đó có hữu hình và có thể mang dâng cho người khác, vậy thì người ta đã tranh nhau lấy đem dâng lên vua. Nếu như Đạo là thứ có thểm đem đi tặng cho người khác, người ta đã đem nó tặng cho người thân.

Nếu như Đạo có thể giảng giải rõ ràng, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của họ. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, người ta sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình.

Song những điều nói ở trên đều là không thể. Nếu một người có nhận thức không chuẩn xác về Đạo, Đạo tuyệt đối sẽ không chạm được đến trái tim của anh ta.”

Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi kinh’, ‘Thư kinh’, ‘Châu lễ’, ‘Châu lạc’, ‘Dị kinh’, ‘Xuân thu’, giảng thuyết đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để hầu chuyện hơn 70 quân vương, họ đều không chọn chủ trương của tôi. Xem ra họ thật khó thuyết phục!”

Lão Tử liền đáp: “Những thứ ông nghiên cứu đều là sử cũ, từ các đời tiên vương, ông thử nói xem chúng có tác dụng gì không? Thứ mà ông đang tu hiện nay cũng là thứ đã cũ.”

Sau cuộc hội thoại đầu tiên ấy, Lão Tử liền đưa Khổng Tử đi bái kiến đại phu Trường Hoành.

Trường Hoành là người rất am hiểu về lý luận âm nhạc nên đã dạy Khổng Tử về âm luật, về các lý luận âm nhạc, đưa Khổng Tử đi tham dự buổi lễ tế thần, khảo sát các địa điểm tuyên giáo… những việc này khiến Khổng Tử vô cùng cảm kích, thu nạp được nhiều điều mới lạ.

Ở lại vài ngày, ông mới xin phép cáo từ Lão Tử về nước.

Lão Tử tiễn Khổng Tử ra về, nói: “Tôi nghe nói, người phú quý lấy của cải để tặng cho người, người nhân nghĩa lấy lời nói để tặng cho người. Tôi không phải người phú quý, chẳng có của cái để tặng cho ông, nên chỉ muốn tặng ông vài lời.

Thời nay, người thông minh mà sâu sắc, gặp nạn thậm chí là họa chết người là do hay mỉa mai người khác, rước chuyện thị phi. Người giỏi biện luận lại tinh thông mọi chuyện, sở dĩ gặp họa là do quá khoa trương người khác.

Là phận con cái, đừng cho rằng mình cao hơn người, là bề tôi, đừng cho mình ở trên người, hy vọng ông nhớ thật kỹ.”

Lời dặn dò của Lão Tử ý nói, tôi chẳng có gì tặng cho ông, chỉ tặng cho ông vài câu này thôi, đó là đừng phỉ báng người khác, cũng đừng khoa trương tâng bốc người khác, đừng kiêu căng, ngạo mạn.

Khổng Tử đáp lời: “Đệ tử nhất định sẽ ghi nhớ những lời này trong tâm.”

Đi đến bên sông Hoàng Hà, Khổng Tử nhìn thấy sóng nước cuồn cuộn, khí thế như vạn mã đằng phi, tiếng vang như hổ gầm sấm dậy.

Ông đứng bên bờ sông thật lâu, bất giác cất lời cảm thán: “Nước sông chảy suốt đêm ngày không ngừng nghỉ, sinh mệnh con người cũng vậy, không biết nhân sinh sẽ chảy đến đâu đây.”


Nghe vậy, Lão Tử liền đáp: “Con người sinh ra trên đời theo lẽ tự nhiên, chết cũng tự nhiên, sống trên đời thuận theo lẽ tự nhiên, có như vậy bản tính mới không loạn, không thuận theo tự nhiên, bận bịu chìm đắm trong nhân và nghĩa, bản tính lúc nào cũng bị gó bó, trói buộc, khó có thể thảnh thơi.

Trong đầu lúc nào cũng cánh cánh suy nghĩ về công danh, tâm vì thế mà bất an, mưu lợi trong tâm, chỉ rước thêm phiền não.”

Khổng Tử liền giải thích: “Tôi vẫn lo lắng rằng, không hành đạo, không theo nhân nghĩa, nước sẽ loạn vì bất trị, ví như đời người ngắn ngủi, không thể có công với đời, không có ích cho dân thì tiếc lắm thay.”

Trầm ngâm một lát, Lão Tử liền chỉ tay xuống dòng nước trên sông Hoàng Hà nói với Khổng Tử: “Tại sao ông không học đức hạnh của dòng nước kia?”

Khổng Tử hỏi lại: “Nước có đức hạnh gì?”

Lão Tử trả lời: “Trong thiên hạ, có thứ gì mềm mại hơn nước, vậy nhưng chưa chắc kẻ mạnh đã có thể thắng thế, lấy nhu thắng cương, lấy yếu thắng mạnh, đó là thứ mà ta có thể học từ nước.”

Khổng Tử nghe vậy bất giác tỉnh ngộ, nói: “Lời của tiên sinh khiến tôi ngộ ra nhiều điều, khai thông bế tắc:

Nước chảy từ cao xuống thấp, uốn lượn quanh co nhưng có phương hướng nhất định. Nước giống như chính nghĩa, mãnh liệt mênh mông không bờ bến, cho dù rơi xuống vực sâu muôn trượng cũng không chút sợ hãi.

Nước mềm mỏng, nhưng không có gì không soi thấu, vạn vật nhập vào xuất ra nước mà biến thành tinh khiết tươi mới. Đó là cái thiện, là trí tuệ tối cao.”

Lão Tử gật đầu, đáp: “Lần này trở về, ông nên bỏ cái ngạo khí trong lời nói và biểu cảm, trừ cái chí lớn ở dung mạo. Nếu không, người chưa thấy đã thấy tiếng, thân chưa tới mà gió đã động, phô trương khuếch đại bản thân, như hổ đi trên phố, thử hỏi ai dám dùng ông?”

Khổng Tử vô cùng cảm kích, đáp: “Lời của tiên sinh, đệ tử xin tạc ghi trong lòng, cả đời không quên. Đệ tử sẽ tuân thủ không chút chậm trễ, như cách để tạ ơn tiên sinh”. Nói xong, ông cáo từ rồi cùng Nam Cung Kính Thúc lên xe về nước Lỗ.

Từ khi trở về, suốt 3 ngày liền Khổng Tử không nói một lời. Tử Công lấy làm lạ lắm, mới hỏi có chuyện gì, Khổng Tử liền đáp:

“Nếu ta gặp một người có tư tưởng phóng khoáng giống như chim bay, ta có thể dùng luận điểm sắc như mũi tên, ngắm bắn chuẩn xác và chế phục người đó.

Nếu tư tưởng của đối phương như một con hươu có thể chạy, ta có thể dùng chó săn để săn đuổi đến cùng, nhất định sẽ khiến người đó phải khuất phục trước luận điểm của ta.

Nếu tư tưởng của đối phương như một con cá bơi tự do trong nước, ta sẽ dùng móc câu để bắt cho được.

Thế nhưng, nếu đối phương có suy nghĩ, tư tưởng như một con rồng, cưỡi mây đạp gió, du ngoạn ở nơi quá hư hoặc, vô ảnh vô hình không thể chạm tới, ta sẽ chẳng có cách nào bắt được.

Ta đã gặp được Lão Tử, cảnh giới tư tưởng của ông ấy chẳng khác gì con rồng quá đỗi hư không kia, ông ấy đã khiến ta nói không thành lời, lỡ mở miệng mà không thể rút lại được, khiến tâm, thần của ta bất định, không biết ông ấy rốt cuộc là người hay là thánh. Lão Tử, quả thực là thầy của ta!”

Và sau hàng ngàn năm, những tư tưởng sâu xa, thâm thúy của Lão Tử cho đến nay vẫn là những giá trị vô giá đối với hậu thế. Lời của Khổng Tử khi xưa, thật đúng lắm thay!

Thứ Sáu, 1 tháng 10, 2021

 


1. Niềm tin là lòng tin về một thứ gì đó dựa vào nhận thức của mỗi người.

Theo từ điển thì niềm tin chính là sự tin tưởng, lòng tin tưởng. Nếu theo như thông thường, cái cách mà chúng ta nghĩ rằng niềm tin là sự tin tưởng đối với những điều ta chưa thể biết thì đó là sai lầm. Chúng ta sẽ lấy ví dụ đơn giản, một câu hỏi được đưa ra “Chúng ta có thể biết ngày mai là mưa hay nắng không?”. Câu trả lời là có, nhưng đó là với sự giúp đỡ của các máy móc, thiết bị hay hiểu biết về các dấu hiệu thiên nhiên còn với một người bình thường họ cũng chỉ đoán có thể có, có thể không, và điều này không gọi là niềm tin được. Bởi họ đâu thực sự “chắc chắn”? Trong khi đó định nghĩa ban đầu của niềm tin là “sự tin tưởng” nếu không thể tin tưởng về chính ý nghĩ của bản thân thì tuyệt nhiên nó không thể gọi là niềm tin được, vì thế đối với điều mà ta chưa xác định được thì đó gọi là đoán mò.

Lấy ví dụ lại về đồng tiền có hai mặt, khi tung hứng nó rơi xuống đất thì kết quả chỉ có một trong hai “ngửa hoặc sấp”.Thực ra chúng ta đã biết rõ là chỉ có ngửa và sấp, nhưng đã có ai dám chắc rằng đồng tiền sẽ không đứng thẳng chưa? Không sấp và ngửa, trường hợp hiếm có nhưng không phải là không thể. Khi ta biết có 3 trường như vậy thì ta biết nó sẽ chỉ là trong 3, người kia nghĩ không có chuyện đó nên khẳng định là nó sẽ chỉ trong 2 trường hợp. Đây chính là niềm tin, ta đã xác định rõ chúng nhưng việc lường trước của mỗi người là khác nhau và không biết đâu là sự thật, vì nó phải cho ra kết quả thì mới là thật. “Chúng ta vì không thể biết nó là ngửa hay sấp nên mới gọi là niềm tin”, điều này phải viết ngược lại “chính vì ta biết nó chỉ có thể là mặt ngửa hoặc sấp (hoặc cả thẳng đứng)” đây là niềm tin.

Một ví dụ khác đó là về niềm tin cho một ai đó, chúng ta vốn không thể biết được tâm địa của ai đó là tốt hay xấu, điều này là chắc chắn, những gì ta bàn tán về một người chẳng qua cũng chỉ là những cảm nhận riêng. Làm thế nào ta có thể nói một người đang giúp cụ già sang đường là tốt? Cũng như làm sao ta có thể nói một người vừa đánh trẻ con là xấu? Có thể là đang vội nhưng vì đông người nên anh ta cũng ngậm đắng mà giúp, có thể đứa trẻ hỗn láo mà người kia phải đánh. Và khi ta có nhận thức đủ về một người ta cũng chỉ có thể nói “Tôi tin cậu ấy là người tốt/xấu”. Về cơ bản thì khi chúng ta có thông tin về một thứ chúng ta nghĩ nó là như vậy thì đó là niềm tin của chúng ta.

Vậy thì điều gì làm những niềm tin lớn như của tôn giáo không phải là một sự phỏng đoán hay sự đoán mò nào đó? Bởi vì mỗi tôn giáo đấy là những niềm tin lớn có lịch sử, có lập luận riêng của họ, đó là những niềm tin có logic riêng có thể ví dụ như Thiên Chúa giáo có Kinh Thánh, Đạo Hồi có Qur’an. Niềm tin mà không có logic thì đó là một niềm tin chết, nói thẳng ra thì nó không phải niềm tin.

Cũng từ đó có thể nói, ở cấp độ cá nhân niềm tin là những gì họ tin rằng nó sẽ là như thế dựa trên nhận thức, hiểu biết của họ.

2. Niềm tin cấu tạo nhân cách con người theo các quy luật triết học

Nhân cách con người xuất phát từ nhận thức mà trong đó bao gồm 3 thứ chủ yếu là: niềm tin, hành vi và bản chất. 

Để diễn đạt “niềm tin” như là một phần của cấu tạo nhân cách con người thì tôi xin viện dẫn các quy luật của Hegel, hay hiện đại ngày nay chúng ta biết tới là “quy luật lượng – chất, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật phủ định”.

Thứ nhất, là về lượng – chất, xác định được việc “niềm tin và một điều gì đó”, nếu chúng ta liên tục tin vào nó, thì nó sẽ thay đổi ta. Ví dụ, khi ta tin rằng “làm việc tốt thì mới tạo phúc cho con cháu”, tin vào điều này liên tục và thể hiện ra bên ngoài như từ thiện hay giúp đỡ người khác, cứ như vậy đến một thời điểm nào đó tự nó, hay chính ta biết đổi thành một người tốt biết giúp đỡ người khác. Hay nếu ta nhìn một người là kẻ xấu, ta đi nói xấu họ, liên tục như vậy thể hiện bằng lượng thì một lúc nào đó ta cũng thành chính kẻ xấu mà không hề nhận ra, niềm tin ở đây chính là ta nghĩ “nói xấu người đó là đúng, và họ đáng bị nói xấu”.

Thứ hai, là về quy luật mâu thuẫn, như Hegel nói thì mâu thuân là nguồn gốc của vận động, là nguyên lý của phát triển. Trong mọi sự vật hay sự việc đều có mâu thuẫn của nó, điều đó cũng có nghĩa là nếu như ta không nghi ngờ chính mình với những dòng suy nghĩ như “mình là đủ tốt chưa?”, “thế này đã hoàn hảo chưa?”, “có nên làm lại không?”,vv thì chúng ta khó có thể khá lên được. Lịch sử chứng minh rằng những ai luôn nghĩ mình hoàn hảo luôn khó phát triển cao được, trong khi đó người luôn tư duy, biết điểm mạnh yếu của mình, luôn mâu thuẫn mà thống nhất lại luôn toàn vẹn. Cũng có nghĩa, nếu như ta không đặt niềm tin của mình lên cân bàn để đong đếm thì sẽ không nhìn ra được lỗ hỏng niềm tin của mình ở đâu dẫn đến việc con người ta “luôn không hoàn hảo”, thật vậy, con người không hoàn hảo, vậy nên ta phải luôn tìm những lỗ hổng để lấp đầy làm con người ta hoàn hảo hơn, như đã đề cập thì chúng ta không nên vô hạn hóa điều gì trong thế giới hữu hạn, sự hoàn hảo cũng vậy, nó chỉ là hữu hạn mà thôi.  Dù vậy, ở Hạt Nhận Thức này, tôi chỉ đồng tình một nửa để áp dụng theo hướng tư duy của tôi. Rằng “Thế giới không mâu thuẫn, con người mâu thuẫn” về phần này thì tôi cũng xin được nêu ở phần khác.

Thứ ba, là về phủ định, khi ta bắt đầu có một niềm tin mới, thì đó là ta ở thể phủ định, ở đây chính là phủ định khách quan. Chúng ta không thể ngăn cản những mâu thuẫn nảy sinh bên trong đầu chúng ta bởi mọi thứ luôn vận động. Khi nhìn thấy một sự vật, hiện tượng ta đã lập tức có những suy nghĩ về nó, đối với một thế giới tràn đầy thông tin thì sự mâu thuẫn trong con người càng đột biến. Từ quy luật thứ hai là quy luật mâu thuẫn thì ngay khi ta tóm gọn được suy nghĩ của mình và quyết định thì lúc đó ta đã có một tính chất để xây dựng nên Con Người Mới, và việc còn lại chính là thực hiện hóa nó bằng hành động hoặc liên tục tin vào nó, đó là lượng. Bởi vì phủ định mang tính kế thừa, cũng vì vậy khi ta đã thấu đáo suy nghĩ thì ta lại tiếp tục kế thừa “con người đã đi qua” của chúng ta, từ đó hình thành nên một con người mới, đương nhiên là ta chưa thể thấy rõ, vì lúc này đây, ta lại cũng chỉ là “lượng” trong một Con Người Mới ở tương lai xa hơn, hay đó là “Con Người Lý Tưởng”, hay con người ta sẽ trở thành.

2.1. Niềm tin cấu tạo nên hành vi của một con người.

Về niềm tin ở mỗi cá nhân, cùng là nhìn lên bầu trời nhưng mỗi người sẽ có cảm giác khác biệt, chính vì thế mà từ đó thế giới này gồm những nhóm cá nhân khác nhau, người thì thấy bầu trời như là sự tự do, người thì thấy bầu trời như là mái vòm tù ngục. 

Niềm tin là những gì tạo nên con người, cách ta hành động, cách ta nghĩ. Đầu tiên chúng ta cần thống nhất với nhau rằng niềm tin sinh ra từ ý nghĩ hay là nhận thức và cũng từ đó nó là một phần thuộc con người chúng ta, cụ thể hơn, là một phần tạo nên tính cách, nhân cách con người chúng ta. Ngay khi chúng ta lựa chọn tin vào điều gì đó, thì điều đó có nghĩa là nhận thức chúng ta đã thông suốt và chọn lựa chọn tin tưởng. Nếu như ta tin rằng làm điều tốt sẽ nhận được những điều tốt đẹp thì hành động của ta cũng sẽ tốt đẹp. “Tư tưởng phản chiếu hành động, hành động phản chiếu tư tưởng” hay như Neale Donald Walsch cũng khẳng định “Belief creates behaviors” (niềm tin tạo hành vi).

Con người thực sự là một hệ thống tổ hợp từ những niềm tin. Theo như tâm lý học thì có những quan điểm nổi bật như “trẻ sinh ra là thiện”, “trẻ sinh ra là ác”, “trẻ sinh ra là tờ giấy trắng”. Thực ra, chúng ta cần nhìn vào thực tại ngay khi đứa trẻ chào đời, chưa suy nghĩ vội sau này nó tốt hay xấu nhưng rõ ràng và thực tế một con người khi sinh ra thì sẽ không thể biết được đâu là tốt và là xấu. Nếu như chúng ta nói những ngôn từ bậy bạ trước mặt trẻ, nó sẽ bắt chước, cảm nhận riêng của tôi khi còn trẻ tôi không biết việc giết một con vật là xấu, hay việc làm phiền bố mẹ khi làm việc là xấu, cho đến khi tôi được nhắc nhở thì tôi mới biết đó là xấu vậy. Từ xưa đến nay khi chúng ta dạy trẻ chúng ta cũng thường nói với nó rằng “cái này không được”, “cái này tránh xa”, vv... Vì vậy mà đứa trẻ nếu không có định hướng rõ ràng, không được uốn nắn thì tương lai sau này đứa trẻ là người tốt hay xấu là một điều thật may rủi. Tôi xin trích lời của James Clear trong cuốn Atomic Habits.

“Chúng ta không được chọn những thói quen thuở ban đầu, chúng ta chỉ bắt chước theo chúng, Chúng ta làm theo kịch bản mà bạn bè, gia đình, nhà thờ, trường học hay cộng đồng và xã hội địa phương giao cho chúng ta. Mỗi nền văn hóa và cộng đồng này đều có những quy chuẩn và kỳ vọng riêng, ta kết hôn khi nào và ở đâu, nên có bao nhiêu đứa con, ngày lễ nào nên ăn mừng, nên chi bao nhiêu tiền trong ngày sinh nhật của con cái. Theo nhiều cách, những quy chuẩn xã họi này là những nguyên tắc vô hình dẫn tới hành vi của bạn mỗi ngày.”

Chính môi trường đang chi phối hành vi của ta, truyền thông, văn hóa, xã hội,... những thông tin cho vào đầu của ta mà nhận thức nhận lấy và rồi từ đó ta tin là như vậy, nó đã như thể ăn sâu vào máu, có nhiều thứ ta làm nhưng không cần hiểu tại sao, ví dụ, tư tưởng trọng nam khinh nữ, gia trưởng. Bản chất con người sinh ra lại không phải gia trưởng, mà nó là quá trình của học hỏi bắt chước và làm theo vô điều kiện. Người ta tin rằng đàn bà phải dưới bếp, đàn ông phải chiếu trên vì một vài nguyên do nào đó mà họ cho là hợp lý phải đạo.

2.2. Niềm tin là cốt lõi của tư tưởng và con người lý tưởng (con người sẽ trở thành) trở thành bản chất.

Lấy bản thân như là một viên đá quý và niềm tin tựa như những chất cấu thành vậy. Beryl khi chứa sắt thì là thành Aquamarine (ngọc xanh biển), nếu chứa Crom thì nó thành Emerald (ngọc lục bảo), nếu mà không chứa gì thì nó là Beryl trắng. Đến cả đá quý nếu như cùng một Beryl thiếu chất này thừa chất kia sẽ thành một loại khác thì con người còn phức tạp hơn nhiều khi trong quãng đời của mình nghe vô số thông tin, khiến họ có vô số niềm tin khác nhau. Nhưng dù nhiều niềm tin là vậy thì cũng có những suy nghĩ, những niềm tin họ đã nghĩ qua và từ đó ta có thể gặp được nhiều người “cùng suy nghĩ”, đôi khi, sự đồng suy nghĩ này nhiều tới mức khiến ta sẽ cảm thấy đối phương như là tri kỷ, như là “bèo gặp nước”. Đó cũng là một trong nhiều lý do mà khi gặp một người ta lại dễ nói chuyện và thân thuộc như bạn bè lâu năm, bởi vì phần nào đó của bản thân họ cũng như bản thân ta, tôi gọi đây là “sự đồng điệu hạt nhận thức”.

Lấy mốc bản thân khi ta còn bé, là nam thì thường thích siêu nhân và không ít người nghĩ mình muốn trở thành siêu nhân. Đó là niềm tin của đứa trẻ, và nó cũng không hề ngây thơ như cái cách ta nhìn vào một nhà triết học, một người nổi tiếng, ta muốn được như vậy, ta lấy đó làm hình tượng. Lấy ví dụ như Herbert Chavez, người Philippines, anh ta hồi bé hâm mộ siêu nhẫn tới mức độ mà lớn lên phẫu thuật 23 lần và không có ý định dừng lại. Nhưng không phải ai cũng có đủ đam mê và hâm mộ dành cho một ai hay thứ gì đó suốt một đời được.

Bắt đầu từ việc lúc là trẻ con, ta được chỉ dạy cái này cái kia. Đương nhiên, tùy tính cách đứa trẻ và phản ứng của nó, có đứa cáu kỉnh, có đứa ngoan ngoãn đứa thì lại rất bướng. Tuy nhiên, nó không phải là tính cách cố định của trẻ, việc chúng ta thêm vào đứa trẻ những thông tin khi còn bé có thể ảnh hưởng phần nào trong vô thức và tiềm thức của đứa trẻ dẫn đến sự thay đổi sau này, trên thực tế ít ai còn nhớ tới những sự việc còn bé và cũng không ảnh hưởng lớn tới suy nghĩ lúc lớn lên. Cũng bởi vậy mà con người trong cuộc đời có rất nhiều lần thay đổi tính nết, điển hình là tuổi dậy thì và lúc đi làm việc và hôn nhân.

Bản chất một người có thể hình thành sau khi hành động một lượng liên tục vừa đủ, hoặc tin tưởng một niềm tin cũng một lượng vừa đủ. Cũng ở ví dụ trên, khi con người ấy hành động gia trưởng từ những gì họ tin là hợp lý thì dần dần họ sẽ trở thành người gia trưởng, gọi là thấm nhuần. Ngược lại, nếu trong một xã hội mà ai cũng gia trưởng thì người kia tin rằng anh ta cũng phải gia trưởng thì mới là phải đạo thì không cần thông qua hành vi nữa mà từ niềm tin đó anh ta có ngay bản tính gia trưởng và từ đó hành vi gia trưởng xuất hiện.

Cái bản chất và cái hành vi luôn tác động qua lại và có mối quan hệ mật thiết với nhau.

"To be is to do"

"To do is to be."

3. Niềm tin, hành, vi, bản chất con người xuất phát từ nhận thức.

Tôi không tin vào cái bản chất tự có của con người.

Có người lấy ví dụ, “Tại sao trong một môi trường hai người cùng sống nhưng người lại phạm tội người thì giúp đỡ người khác?”, bản chất là thứ cố hữu không thể di dời và thay đổi? Sinh ra tốt là tốt và xấu là xấu.

Vậy thì phải hỏi thêm một câu nữa, “Tại sao một người tốt bỗng hóa điên mà phạm tội?”, hay chúng ta sẽ phản biện tốt chỉ là vỏ bọc bề ngoài còn phạm tội sau này chính là bản chất sau cùng?

Vậy hỏi thêm câu nữa, “Một người trước đây làm nhiều chuyện xấu,  bạo lực học đường, mất dạy với bề trên, sau này trở thành một người tốt?”, giờ lại tiếp tục luận điệu xấu là vỏ bọc bên ngoài và tốt là cái sau cùng?

Từ những điều trên cho ta thấy điều gì? Đó là chẳng cái gì cả.

Tốt xấu là tương đối, ai cũng có thể tốt và ai cũng đều có thể xấu xa. Theo tâm lý học tội phạm, thì chỉ cần đúng hoàn cảnh thì những tính cách tiêu cực sẽ lấn át phần tốt. Không thể nói một người phạm tội là xấu hoàn toàn, họ vẫn có những phần tốt, có thể là một số ít.

Bản chất không tự có. Nhưng tôi lại tin vào sự tự có của nhận thức.

Và cũng chính từ đây mới hình thành nên bản chất.

Nhận thức bậc cao hơn thì hiểu sâu sắc hơn. Còn nhận thức hời hợt thì không hiểu các giá trị đạo đức là gì.

Nói cách khác, chính nhận thức trau dồi cái bản chất. Nhưng đồng thời nhận thức có thể được trau dồi bởi tri thức.

Một người nhận thức cao không có thành tích học tập tốt nhưng lại có sự hiểu thì cái bản chất tốt sẽ được trau dồi lấy con số làm ví dụ như là 5, 6 điểm thì người đó cũng là công dân gương mẫu cho xã hội.

Một người nhận thức thấp thì học tập bao nhiêu cũng chẳng tiếp thu dẫn đến cái bản chất luôn là 0 điểm, không tiếp thu, thì làm sao mà trở nên tốt?

Một người nhận thức thấp nhưng có học tập chăm chỉ thì vẫn được bồi dưỡng phần nào đó sự thiếu sót thông qua những bài học anh ta được học.

Cái nhận thức ở đây chính là khả năng thu nhận thông tin, khả năng đánh giá tư duy. Theo Mác- Lenin thì nhận thức

“...là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình nhận thức diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.”

Nhận thức khác bản chất. Bởi khi ta có nhận thức bằng 0 thì bản chất bằng 0. Đó là bản chất loài thú. Nhưng ta là con người, ta có tư duy, nhận thức ta sinh ra không thể biết làm gì theo bản năng như loài thú được, nó biết nó sợ gì và trên loài nào, con người thì không. Vì thế bản chất không quyết định cái nhận thức mà cái nhận thức quyết định cái bản chất.

Tôi có câu hỏi:

“Ở đây có ai mà không cần tiền?”

Đa phần đều sẽ nói, “Có đương nhiên tôi cần tiền”

Một số ít sẽ nói thêm, “Nhưng tôi dùng tiền như phương tiện”

Có vài người nói, “Tiền là tất cả, không tiền là vô dụng”.

Chính nhận thức đã giúp ta định hình bản chất, ta biết đó là tiền và ta có nhận thức về nó, từ đó bản chất được quyết định, nó cũng sẽ chi phối luôn hành vi của ta và đó là niềm tin của ta.

Một ví dụ khác, có một người đang chết đuối, người ta sẽ làm gì?

Có người nói, “Chờ anh ta không vùng vẫy nữa rồi cứu cũng chưa muộn”.

Người nói, “Tìm cái cây dài đưa anh ta cầm rồi lôi lên”.

Vài người nói, “Tôi không biết bơi”

Có người đặc biệt hơn, “Tôi mặc kệ, tôi thấy là tôi cứu nếu không sẽ cắn rứt lương tâm”.

Có người phản ứng nhanh, có người phản ứng chậm, nhận thức tập luyện lâu dài sẽ thành tiềm thức, như một thói quen mặc định vậy. Tóm lại thì ta đã có suy nghĩ và nhận thức về vấn đề, vậy nên chính nhận thức đã quyết định bản chất.

Nó bắt đầu từ khi ta còn là đứa trẻ, khi bắt đầu có nhận thức và cũng chính nhận thức này kết nạp đủ mọi thông tin và cũng từ việc kết nạp thông tin này ta mới hình thành nên cơ sở cho cái gọi là “niềm tin”. Chính điều này cấu tạo nên nhân cách con người. Nhận thức hồi nhỏ của chúng ta không quá khác biệt, giống như lứa tuổi dậy thì, nữ giới dậy thì sớm hơn thì suy nghĩ nhận thức cao hơn nam giới, nhưng về sau nam giới lại phát triển nhanh hơn, và cũng chính ở những giai đoạn như vậy mà chúng ta thường có những sự thay đổi, có thể là thay đổi lớn. Đó cũng là lý do tại sao mà hồi trẻ chúng ta dễ thay đổi vì chúng ta không có đủ nhận thức, thông tin, tri thức và khi về già thì chúng ta đa phần kiên định vì ta đã tư duy đủ, thông tin cần thiết đã có. Nhìn lại chúng ta khi còn nhỏ, khi thiếu niên, thanh niên, bao nhiêu người sẽ nói bản thân chưa từng thay đổi?

  "Niềm tin quyết định cái bản chất và hành vi con người, trong đó niềm tin lại thuộc bộ phận của nhận thức. Điều này tạo nên sự ổn định trong nhân cách con người." Hay nói theo một cách ngắn gọn

 “Nhận thức quyết định nhân cách của một con người.” 

 

 

Thứ Tư, 12 tháng 5, 2021

Nghiên cứu về niềm tin (Theo Ths. Võ Văn Thành)

 

   Tiếp theo là về những niềm tin chung và niềm tin tôn giáo, đây là bài viết nghiên cứu nghiêm túc, ngắn gọn, súc tích mà tôi thấy nó là vừa đủ để chúng ta có cái nhìn bao quát về những niềm tin hiện tại. Bài viết là nghiên cứu của Ths. Võ Văn Thành trong bài “Thử bàn về niềm tin đời thường và niềm tin tôn giáo”, sau bài viết này sẽ là quan điểm của hạt nhận thức và cũng là tạm kết cho chủ đề niềm tin này. Xin được phép bắt đầu.


          Trong bài này, chúng tôi bàn đến hai cấp độ của niềm tin, đó là niềm tin trong đời thường và niềm tin tôn giáo. Trước hết, cần làm rõ thế nào là niềm tin, niềm tin đời thường và thế nào là niềm tin tôn giáo.

            Các từ điển khá tên tuổi như Từ điển từ và ngữ Việt Nam của GS.Nguyễn Lân, NXB TP. Hồ Chí Minh 2000, có một từ nói về niềm tin. Niềm tin = lòng tin tưởng. Việt ngữ chánh tả tự vị của Lê Ngọc Trụ, Khai Trí tái bản lần thứ I, 1972 chỉ có một chữ niềm (niệm) = lòng tưởng nhớ.

            Theo tôi, niềm tin là sự hy vọng của chúng ta vào một điều gì đó hoặc một cái gì đó mà chúng ta chưa thể xác định được nó một cách rõ ràng. Chẳng hạn, một người cầm một đồng xu trong tay sau khi tráo qua trở lại rồi nắm thành hai nắm chìa cho ta đoán trong nắm tay nào có đồng xu. Trong trường hợp đó, ta không biết nắm tay nào có đồng xu, ta có thể đoán nắm tay này có đồng xu nhưng thực tế khi mở ra thì chưa chắc có đồng xu. Theo tôi đó là niềm tin. Niềm tin là cái chưa thể xác thực được, nếu cái gì đó đã được xác thực rõ ràng, không còn phải đoán hay đặt lòng tin vào nữa thì khi đó niềm tin đã trở thành sự thật.

              Như vậy khi chúng ta biết một cái gì đó rõ ràng thì đó không còn là niềm tin mà nó đã trở thành sự thật, chúng ta không còn phải đặt cược theo kiểu Pascal nữa, tức là nhảy xuống nước xem mình có bị chết đuối hay không!

             Niềm tin trong đời thường là sự hy vọng, trông mong rất bình dị của chúng ta vào những điều trong cuộc sống giúp chúng ta siêu việt lên những khó khăn của cuộc sống hay làm cho đời sống tinh thần của chúng ta được thăng hoa. Niềm tin đời thường - từ những niềm tin của những người bình thường nhất cho đến các bậc vĩ nhân - đều có một vai trò rất lớn trong đời sống của họ. Chúng ta thử tưởng tượng một người không có niềm tin thì cuộc sống của anh ta sẽ như thế nào. Tôi tin rằng người đó khó thể có được hạnh phúc và sự bình lặng nội tâm cho dù là một phút giây ngắn ngủi và rốt cuộc dẫn anh ta đến sự tự hủy hoại bản thân, hủy hoại môi trường sống và hủy diệt cuộc sống của người khác như Eric Fromm đã viết (chúng tôi sẽ đề cập trong phần niềm tin tôn giáo)…

              Một trường hợp niềm tin khá phổ biến dẫn đến một tập tục và truyền thống đáng tự hào của các dân tộc Đông Nam Á đó là việc tin vào linh hồn của con người sau khi chết đã đưa đến tập tục thờ cúng tổ tiên mà tôi xét ở đây là tục thờ cúng tổ tiên của người Việt. Người Việt tin rằng sau khi ông bà, người thân mình mất thì linh hồn của họ vẫn thường còn mãi mãi cho nên mới có phong tục thờ cúng tổ tiên. Người Việt tin rằng, hằng năm vào những ngày giỗ kỵ hoặc lễ, Tết thì linh hồn của tổ tiên, ông bà mình sẽ về sum họp với con cháu. Đó là cơ hội để cho con cháu báo hiếu ông bà, cha mẹ; hoài niệm về ông bà, cha mẹ; tưởng nhớ tới công đức của ông bà, cha mẹ. Nếu không có ông bà, cha mẹ mình thì mình sẽ không tồn tại ở cõi đời này, do đó việc báo hiếu khi ông bà, cha mẹ còn sống là điều tất yếu phải làm và làm một cách rất hoan hỷ, tự nguyện. Ông bà, cha mẹ tuy đã mất nhưng vẫn còn quanh quẩn đâu đây xung quanh con cháu để chăm sóc chúng, khuyến khích chúng làm điều tốt, răn chúng không nên làm điều xấu. Xã hội người Việt vốn từ lâu đã xem trọng truyền thống thờ cúng tổ tiên ông bà, cha mẹ và còn xem đó là tập tục bắt buộc đối với con cháu, một trách nhiệm gia đình biến thành một phong tục nhằm duy trì cái đẹp trong xã hội.

            Khi ông bà cha mẹ mình đã chết, phải chăng là mọi thứ với họ đều đã chấm dứt, đã hết, kể cả tình thương? Không, những người con cháu vẫn rất thương nhớ không nguôi ông bà cha mẹ của mình. Tập tục thờ cúng ông bà cha mẹ là sợi dây vô hình siết chặt tình thâm giữa những người đang sống và đồng thời cũng kết nối thế giới của những người đang sống với thế giới của những người đã chết… Chết không phải là hết, mà chết là về với tổ tiên ông bà như nhà văn Sơn Nam đã từng nói: “Chết là tiếp tục sống bên cạnh ông bà cha mẹ và bao nhiêu bạn bè chết trước” [Sơn Nam 2005: 37]. Điều đó là niềm an ủi và cũng là niềm tin giúp cho những người đang sống được sống yên vui, bình lặng nội tâm, vượt qua những khó khăn của đời sống và giúp những người đang sống thăng hoa về mặt tinh thần. Niềm tin của người Việt về việc thờ cúng tổ tiên một cách thành tín nhất xưa nay vẫn là vậy.

             Chúng ta giả sử, nếu người Việt hiện nay quan niệm chết là hết và vứt bỏ tất cả những tập tục thờ cúng tổ tiên ông bà xưa nay thì có khác gì bắt chước những điều sai lầm của phương Tây vốn đã bị các nhà phê bình như Eric Fromm phê phán: “Ở thế kỷ XIX, vấn đề là Thượng Đế đã chết. Ở thế kỷ XX, vấn đề là con người đã chết.” (In the nineteenth century, the problem is that God is dead. In the twentieth century, the problem is that man is dead) [dẫn lại Minh Chi 1993: Đại cương triết học phương Đông, phần I, Đại học tổng hợp 1993].

            Câu trên của Eric Fromm cảnh báo một cuộc khủng hoảng niềm tin vào Thượng Đế của người phương Tây, khủng hoảng niềm tin vào tôn giáo truyền thống. Theo tôi, câu trên chỉ đúng với thế giới phương Tây vốn rất hướng ngoại, rất tham vọng, luôn muốn khám phá mọi thứ, thậm chí đã khai tử cho Thượng Đế như Fromm đã nói. Hay như Marx đã xem tôn giáo là “thuốc phiện của nhân dân”: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sanh bị áp bức, là trái tim của một thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng thái không có tinh thần, tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [dẫn lại theo Minh Chi 1995: 63].

            Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu niềm tin tôn giáo. Thế nào là niềm tin tôn giáo? Ở đây xin mượn ý kiến của GS. Minh Chi viết về niềm tin tôn giáo:

            “Niềm tin tôn giáo hay trong hợp từ tín ngưỡng tôn giáo hàm ý một niềm tin ở những cái siêu nhiên, nhưng đối với tôn giáo vẫn rất hiện thực, thậm chí còn hiện thực hơn cả thế giới hiện tượng nữa, nhưng vẫn ở ngoài tầm nắm bắt của giác quan và tri thức của con người bình thường”.

             Như vậy, niềm tin tôn giáo là niềm tin trong đời thường đã được thăng hoa thành niềm tin thiêng liêng trong các tôn giáo lớn, tuy tên gọi có khác nhau nhưng Divine Ground (Thần tánh), Brahman (Đại Phạm, Đại Ngã) theo Ấn Độ giáo, Chân như, hay Phật tánh, hay Pháp thân (theo đạo Phật), Allah  (Thượng đế, Thần chủ) bởi Hồi giáo, abyss of Godhead Thần cách vô hạn (theo Gia Tô giáo, phái Huyền Bí) hoặc là bản thể của ba vị Chúa cha, Chúa con và Thánh thần, “Huyền chi hựu huyền, thiên địa chi thủy, vạn vật chi mẫu” theo Đạo giáo v.v… tất cả đều hướng vào cái siêu nhiên ngoài tầm nắm bắt của cảm quan và tri giác của con người. Niềm tin tôn giáo đã thăng hoa con người, giúp con người hướng thượng, tức hướng họ đến cái chân, cái thiện và cái mỹ.

          Các tín đồ Phật giáo tin vào Niết-bàn, xem Niết-bàn là mục đích, là khát vọng vươn tới. Các tín đồ Ấn giáo tin Đại ngã là cái ta của vũ trụ, và cái tiểu ngã là cái ta của mỗi cá nhân và tìm cách hòa hợp vào cái ta Đại ngã hay cái ta của vũ trụ. Các tín đồ Cơ Đốc giáo đặt niềm tin vào Đức Chúa Giê-su hay Thiên đường hoặc các tín đồ của đạo Hồi tin vào Đức Mahomet và kinh Koran v.v… Tất cả đều là niềm tin tôn giáo cao cả của họ.

             Trong đạo Phật, địa ngục cũng được xem là một cõi sống của những dạng chúng sinh đã tạo ra những nghiệp cực ác phải nếm trải; và điều đó đâu có gì là không tốt với mục đích khuyến khích dân chúng làm điều thiện, xa rời điều ác? Niềm tin vào địa ngục rất có ích trong việc răn ác và khuyến thiện thì tại sao không phát huy mà lại xem là mê tín? Và ở đây cần mở ngoặc nói thêm về mê tín.

            Thế nào là mê tín? Mê tín là tin đến mức mê muội và mù quáng, và sự mê muội và mù quáng đó thể hiện thành những hành vi phản xã hội, phi nhân tính, làm rối loạn trật tự công cộng, làm hỏng đạo đức xã hội, thương tổn thuần phong mỹ tục của dân tộc. Ví dụ về những biểu hiện mê tín như: tuyên truyền cho người ốm uống nước thải, nước tàn nhang, để cho người ốm càng ốm thêm, ốm đến chết. Vu cho người nào đó là có ma quỷ nhập vào rồi hành hạ người đó đến chết. Mượn lời đồng cô, thầy cúng, thầy tướng để lừa đảo những người nhẹ dạ v.v… Như vậy, chúng ta không nên lẫn lộn giữa niềm tin tôn giáo và mê tín vì chúng hoàn toàn khác nhau như đã phân tích.

             Bây giờ chúng ta hãy xem những nhân vật nổi bật nhất trong lịch sử nhân loại có niềm tin về tôn giáo như thế nào.

            Trước hết xin nói về Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni, người đã thành lập nên đạo Phật cách đây hơn 2.500 năm. Khi Đức Phật Thích Ca tìm ra chân lý giác ngộ, Ngài định không thuyết giảng chân lý ấy không phải dễ gì ai cũng có thể hiểu được, nhưng Ngài lại nhìn xuống ao sen và suy nghĩ rằng: trình độ tiếp thu giáo lý của chúng sinh cũng giống như những bông hoa sen, có bông thì đã vươn lên khỏi mặt nước thật cao (ví như những người có trình độ tiếp thu giáo lý của Ngài thật nhanh), có những bông sen vừa mới vươn lên ngang mặt nước ví như những người có trình độ kém lớp người đã nói trên và có những bông sen còn ngâm mình dưới nước ví với những người có căn cơ thấp. Tuy nhiên tất cả họ đều có thể tiếp thu giáo lý của Ngài theo mỗi cách của họ và Ngài đã quyết định giảng chân lý mà Ngài vừa chứng ngộ. Trường hợp này, niềm tin tôn giáo bản thân của Đức Phật Thích Ca đã thôi thúc Ngài phát triển lên thành niềm tin tôn giáo có thiết chế xã hội rõ ràng.

        Nhiều nhà khoa học tuy mệnh danh là những người khám phá thế giới vật chất nhưng ở họ, niềm tin tôn giáo vẫn không bị mai một mà trái lại, họ cảm nhận những khám phá của mình chỉ là manh mún. Mở đầu cuốn Thế giới như tôi thấy, Albert Einstein đã viết: “Tình cảnh của những đứa con trái đất chúng ta mới kỳ lạ làm sao! Mỗi chúng ta đến đây như một chuyến viếng thăm ngắn ngủi. Ta không biết để làm gì, nhưng đôi khi ta cảm nhận được điều đó”.

        “Tôi tuyệt đối không tin vào tự do của con người theo nghĩa triết học. Mỗi người không chỉ hành động vì sự thúc ép ngoại cảnh mà còn theo đòi hỏi nội tâm” [Albert Einstein 2007: 15].

            Einsten nói câu trên giống như các lãnh tụ tôn giáo thế giới đã từng trải nghiệm. Đức Phật Thích Ca sau khi thiền định và giác ngộ dưới cây Bồ-đề thì nội tâm của Ngài đã thôi thúc Ngài phải làm cái gì đó cho nhân loại đang chịu khổ này. Đức chúa Giê-su sau khi suy tư nhiều ngày trong sa mạc đã xuất lộ cũng chỉ vì nhân loại đang chịu khổ. Tại sao họ phải làm vậy? Có thể trả lời rằng là bởi vì niềm tin trong nội tâm đã thôi thúc họ làm như vậy.

            Trở lại với Einstein, nhà khoa học được tôn sùng là người vĩ đại nhất của thế kỷ XX cũng trải nghiệm “cái bí ẩn” có thể nói là với thái độ bất khả tri: “Cái đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể trải nghiệm được là cái bí ẩn. Đó là cảm thức nền tảng trong cái nôi của nghệ thuật và khoa học chân chính. Kẻ nào không biết đến nó, không còn khả năng thảng thốt hay kinh ngạc, kẻ đó có thể coi như đã chết, đã tắt rụi lửa sống trong mắt mình” [Albert Einstein 2007: 20]. Và Einstein đã tin là có cái tôn giáo trong nghiên cứu khoa học đó là tôn giáo vũ trụ (cosmic religion), theo ông niềm tin vào một tôn giáo vũ trụ là cần thiết và ông còn cho rằng tôn giáo tương lai đáp ứng được nhu cầu đó chính là đạo Phật.

            “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Nó siêu việt lên một Thượng đế cá nhân và tránh giáo điều và thần học. Bao gồm cả tự nhiên và tâm linh, nó dựa trên một cảm nhận tôn giáo, phát sinh từ sự thực nghiệm về mọi thứ, tự nhiên và tâm linh như một sự thống nhất có ý nghĩa. Đạo Phật đáp ứng mô tả này. Nếu có một tôn giáo nào phù hợp với nhu cầu khoa học hiện đại, nó phải là đạo Phật”I (1).

            Niềm tin của Eistein vào một tôn giáo vũ trụ, một tôn giáo không giáo điều và siêu việt lên Thượng Đế cá nhân đã cổ vũ cho bao lớp người làm khoa học từ đó đến nay. Cá nhà khoa học đã có được một niềm tin tôn giáo ngay trong lĩnh vực hoạt động của mình khiến cho họ không còn bị cô độc giữa những phát minh và con số nữa. Một niềm tin giúp họ ngày càng tiến xa hơn trong địa hạt của mình và không cảm thấy bức xúc gì.

            Nói tóm lại, theo tôi, con người chúng ta không thể sống mà thiếu niềm tin được dù là niềm tin đời thường hay niềm tin tôn giáo. Vì thiếu niềm tin, con người sẽ bị lầm lạc, bị chán nãn, bị biến thành những người máy nổi điên mà không sớm thì muộn nó cũng sẽ phá hủy thế giới của nó. Xin mượn lời của Henry Ford, người thành lập nên hãng xe hơi Ford nổi tiếng của Mỹ chịu ảnh hưởng đôi chút tư tưởng tôn giáo phương Đông để khép lại bài luận này: “Tôi chấp nhận thuyết tái sanh từ năm tôi 26 tuổi. Tôn giáo không cung cấp được cái gì thích hợp. Ngay công việc cũng không làm cho tôi được thỏa mãn đầy đủ. Công việc làm sẽ là vô ích nếu chúng ta không lợi dụng được kinh nghiệm của đời này để dùng cho đời sau. Khi tôi phát hiện được thuyết tái sanh, thì thời gian không còn bị hạn chế nữa. Tôi không còn là nô lệ của kim đồng hồ nữa. Tôi muốn truyền lại cho những người khác sự bình thản mà một quan điểm lâu dài về cuộc sống đã đem lại cho tôi”ii

            

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1/ Albert Einstein (Đinh Bá Anh, Nguyễn Vũ Hảo, Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Bùi Văn Sơn Nam hiệu đính), Thế giới như tôi thấy, NXB. Tri Thức 2007.

2/ Minh Chi & Hà Thúc Minh, Đại cương triết học phương Đông, Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh 1993.

3/ Minh Chi, Các vấn đề Phật học, Viện Nghiên cứu Phật học 1995.

4/ Minh Chi, Quan điểm của đạo Phật về sống-chết, NXB TP. HCM 2007.

5/ Sơn Nam, Xóm Bàu Láng, NXB Trẻ 2005.

---------------------------------------

5

Nguồn: Võ Văn Thành (2014), “Thử bàn về niềm tin đời thường & niềm tin tôn giáo”, Nguyệt san Giác Ngộ, Phụ trương nghiên cứu Phật học của Báo Giác ngộ, số 215, tháng 2-2014, trang 59-65.

i “The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a personal God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism” [dẫn lại theo Minh Chi & Hà Thúc Minh 1993: Đại cương triết học phương Đông, Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh 1993]

ii Dẫn lại theo Quan điểm của đạo Phật về sống-chết, Minh Chi, NXB TP. HCM 2007.

Thứ Năm, 11 tháng 3, 2021

Wordsworth hay triết học xanh (Trích trong tập tiểu luận Câu chuyện vô hình)

Trước khi đi tiếp vào nội dung của "Niềm tin hạt nhận thức", hãy cùng tản mạn qua một bài tiểu luận ngắn của Hamvas Béla về Wordsworth, do Nguyễn Hồng Nhung dịch. Đầu tiên thì tôi sẽ cùng bạn đi đến những cách hiểu, góc nhìn chút thiên hướng nội tâm và duy tâm, sau đó thì ta sẽ đến những câu hỏi duy lý và góc nhìn của Hạt Nhận Thức dựa trên nguyên lý "nửa quả táo". Vậy nên hãy cùng nhau tận hưởng chuyến đi này.

William Wordsworth là một người cô đơn. Nỗi cô đơn này không do số phận gây ra. Ông không gặp những cú sốc, không bị hiểu nhầm, không bị đầy đọa, không bị xua đuổi. Ông sinh ra để cô đơn, và sự cô đơn này con người, đàn bà, bạn bè, cộng đồng không giải tỏa được.

Chưa bao giờ ông biết đồng cảm với các mối quan hệ cũng như mối liên hệ họ hàng với thực thể người, sự hòa hợp làm một trong thiện cảm, trong tình yêu, tình bạn với con người có nghĩa là gì, ông không biết. Cảm xúc tập thể không chạm vào trái tim ông.

Chỉ khi đi vào rừng, ngồi lên mỏm đá trên vách núi, khi dạo chơi bên dòng sông, hay ngắm bầu trời sao, lúc đó ông mới thư thái- và chỉ nhận ra sự cô đơn đồng cảnh của mình trong cây lá, núi đồi, sông nước và mây trời. Sự ngây ngất trước thiên nhiên là khả năng duy nhất dành cho ông, để ông có thể hòa mình với một loại cộng đồng nào đấy, để cuộc sống của ông tiếp xúc với một cuộc sống nào đấy.

Ông tồn tại, như một lần đã viết lên một thân cây: “Tôi đứng một mình trong bóng tối của đêm.” – ông đứng một mình giữa sự cô đơn riêng của ông.

Cộng đồng người, tôn giáo, tình yêu đều không phá vỡ nổi nỗi cô đơn này; có vẻ như ông chưa hoàn toàn là con người. Không phải một linh hồn người. Ông còn lâu đời hơn cả con người. Ông từ một giai đoạn, khi linh hồn chưa nhận biết về cuộc sống cộng đồng, về khả năng các quan hệ con người. Những mối quan hệ, những sự đam mê, sự quyến rũ chưa gắn với đàn bà, trẻ em, mà gắn với cây cối, đá sỏi, với các nguồn nước, với chim muông và với các vì sao.

Thậm chí, dường như thuở đó chưa có cả các mối quan hệ, chỉ có sự cô đơn. Như thể chưa hề có linh hồn người, chưa hề có cá nhân, nên ông không biết gắn mình với cá nhân con người. Khi ông tìm kiếm sự tiếp xúc, không với con người mà ông tìm từ một hiện thực giống ông, một hiện thực không có cá nhân con người.

Sự say mê thiên nhiên của Wordsworth không phải khát vọng-thời hoàng kim, không phải sự chạy trốn trước thế giới con người, không phải sự giải phóng những cảm xúc bế tắc hoặc bị dồn nén.

Khi hướng về thiên nhiên, không ai hướng về cái Tôi con người, mà hướng về một cái Tôi cổ xưa và sâu thẳm hơn rất nhiều. Không phải cái linh hồn-tinh thần, cái linh hồn- tâm lý, hoặc cái linh hồn-vật chất là thứ ngây ngất ông tìm thấy trong cây cỏ, nguồn nước, trong sỏi đá và các vì sao.

Có linh hồn, một thứ sâu sắc hơn tinh thần, sâu đậm hơn cuộc sống, sâu thẳm hơn đất. Đấy chính là LINH HỒN ĐẦU TIÊN. Không thể nhận ra nó từ những thứ sau đó mới xuất hiện: hình thức, sự chuyển động, các bộ phận, cuộc sống, các con vật, con người. Đối với nó sự tồn tại của khoáng chất cũng là phức tạp, nặng nề và trừu tượng: nó quá cao. Quá tinh tế. Nó còn sâu hơn cả đá.

Sau linh hồn đầu tiên tiếp đến linh hồn thứ hai, thứ ba, thứ năm, thứ hai mươi- linh hồn-trầm tích cổ, linh hồn lá mục, linh hồn cây cỏ, linh hồn nước, linh hồn máu, linh hồn tinh thần. Chúng ta có nhiều loại linh hồn, như có bấy nhiêu thực thể, một giọt trong nước, như có bấy nhiêu vì sao trên dải Ngân hà.

          Cái đầu tiên vượt lên tất cả. Đấy là cái ĐẦU TIÊN. Cái đầu tiên là cái đơn giản nhất. LINH HỒN CỔ XƯA. Có MỘT. Nó sâu vô tận, đơn giản vô tận, câm lặng, tối sẫm, cực kỳ bình thản và cô đơn tuyệt đối.

Đối với LINH HỒN ĐẦU TIÊN thiên nhiên là thế giới cao nhất, mà nó còn hiểu được. Nhưng nó tự hiểu, và hình dung giống như là nó. Như thể thiên nhiên không có nhiều, chỉ có MỘT. Như thể thiên nhiên không phải cái bên ngoài, mà là bên trong. Như thể thiên nhiên không phải cảnh vật, mà là một THỰC THỂ. THỰC THỂ LỚN. THỰC THỂ LỚN không đàn bà, cũng chẳng đàn ông.

LINH HỒN ĐẦU TIÊN không biết về đàn ông và về đàn bà. Trong nó tất cả là MỘT. Đàn ông và đàn bà trong một, nhưng không phải hai tan ra thành một, mà như thể chưa tan ra. LINH HỒN ĐẦU TIÊN mang giới tính cổ.

Sự cô đơn của thi phẩm Wordsworth: là sự cô đơn của LINH HỒN ĐẦU TIÊN mang giới tính cổ xưa.

-2-

Thật ra, trong cái vô hình, tất cả đều gắn bó với nhau.

Con người trên những lối mòn dạo chơi cô đơn kiểu Wordsworth, trong rừng, trên bờ biển, một mình, giữa những triền núi, dưới bầu trời sao, vui vầy một cách vô tư với ý tưởng này, và nói: nếu đúng như vậy, tại sao tháng và màu sắc không thể gắn bó với nhau?

Tháng Ba màu nâu, tháng Tư màu xanh dương, tháng Năm chắc chắn màu xanh non, tháng Sáu màu đỏ, tháng Bảy màu đỏ ối, tháng Tám màu vàng, và tháng Chín màu hoàng kim. Nhưng màu sắc cũng gắn bó với âm thanh. Tháng Năm không chỉ xanh non mà còn là g-moll. Tháng Bảy không chỉ đỏ ối mà còn là cisz-moll. Thật đặc biệt. Nhỉ?

Sau đó đến những ý nghĩ sau đây: cách đây hai mươi năm bỗng ngày nọ qua ngày kia đột nhiên trên các con phố người ta mở các hiệu bán đồ ngọt, và đôi khi không chỉ một. Con người đua nhau mua đường, kẹo bonbon, socola, phần lớn là rẻ, vì thế là thứ kém phẩm chất và thành đồ ăn vặt ngơ ngẩn. Cùng lúc ấy, có thể nhận ra so với con người của những thời kỳ trước, số đông bắt đầu hay nói dối.

Mãi sau này mới có những cuốn sách nói về mối quan hệ này. Người ta nhận ra mối liên hệ, và nghiên cứu xem cái gì ẩn náu trong đó. Từ cơ sở kiến thức tâm linh nói về sự giống nhau có thể thấy rằng, ở đây đường và sự dối trá có liên hệ với nhau.

Tất nhiên cần phải vào những cái hiệu nhỏ, nếm tất cả các loại đường, kẹo bonbon, cả loại rẻ, loại tin được, loại đắt và loại ngon miệng, cần phải trải qua cảm giác ngon lành đặc thù, mà sự nếm náp này mang lại- nhưng quan trọng là cần nhận ra mối quan hệ tiếp theo và không thể phủ nhận được, trong việc người ta ăn kẹo bonbon và một sự bắt buộc không cưỡng lại được của sự dối trá nổi lên trong lòng. Điều này không phải về vị ngọt của nó. Rượu, hoa quả, mật ong cũng ngọt. Nhưng cái ngọt của đường về cơ bản khác hẳn. Hoa quả, mật ong ngọt một cách bình thản, dịu dàng, tươi tỉnh và vô tội. Bởi chính chúng là như thế. Nhưng đường thì không.

Có một cái gì đó trắng trợn nắm bắt được trong đó, một cái gì kích thích, thậm chí hỗn xược. Ai ăn đường, người đó ăn một xu hướng thích dối trá; kẻ dối trá, thích đi đường phụ, thích chọn những ý nghĩ quanh co, phủ nhận, dấu diếm, cố tình quên, ru ngủ, đánh lạc hướng. Đi đâu?- Cái thế giới mà đường mê hoặc, không có.

Nhưng mối liên hệ thực sự của nó không phải cái đó. Mà ở sâu hơn. Vô hình. Tính chất của đường, là biến mất: như thể. Hoàn toàn chỉ hình như, trơn chu, nhẹ nhõm, một sự tan ra tuồn tuột, cảm giác choáng váng vỗ về.

Sự giả dối cũng gây bẩn, y như đường. Một cách ngọt ngào, chậm rãi, vỗ về, không để ý, từ đằng sau. Nó làm rỗng đi, bởi mong muốn con đường dễ dàng hơn, nó lựa chọn, và cho đi; nó làm người ta ngấy, làm hỏng, làm lười biếng.

Đấy là sự tương đồng tâm linh giữa đường và sự giả dối. Sự giả dối mỉm cười, như đường, và bộ mặt của đường, giống như sự giả dối, bảo lãnh một sự giải phóng dễ dãi. Sự giả dối nổi lên và bộc lộ trong những điều bí mật, thoạt nhìn có vẻ cứu con người khỏi sự rắc rối, nhưng thực tế nhấn người ta xuống bùn, chìm vào sự mềm mại của nó, như đường.

-3-

Wordsworth là nhà thơ triết học. Ông nói: “Thi ca là thứ mang tính triết học nhất trong mọi thể loại viết”. Và: poetry is the first and last of all knowledge – Thi ca là mở đầu và kết thúc của mọi tri thức.

Triết học này là gì?

Triết học của Wordsworth: triết học xanh

Khi đường và sự dối trá có liên quan đến nhau, vậy cần phải nói cho mọi người hiểu rằng màu xanh non, tháng Năm và g-moll có liên quan thế nào với nhau. Xanh non không chỉ là màu, g-moll không chỉ là âm thanh và tháng Năm không chỉ là tháng.

Đây là một cái gì, nằm trong mọi sự vật, trong cá nhân và trong ý nghĩa của thế gian, một cái gì xanh non và g-moll, một cái gì tháng Năm: hơi trần trụi, nhưng trong trẻo và tự do, như tiếng vọng từ đỉnh núi, như nước suối trong vắt ngoằn ngoèo bên những triền đá, một cái gì trong suốt và lấp lánh, như hơi thở ban mai, như tiếng chim véo von tháng Ba, trong sáng, giòn tan, lóng lánh và ẩm ướt.

Một cái gì hiện hữu trong thế gian, như màu sắc ẩn trong tia sáng mặt trời. Chỉ khi tia sáng gẫy, màu sắc vụn ra. Chỉ khi con người chăm chú, mới nhìn thấy hiện thực xanh non.

Luôn luôn hiện hữu và có trong tất cả: âm thanh, màu sắc chỉ là dấu hiệu hiếm hoi của hiện thực xanh non vĩnh cửu và thiêng liêng- nó ẩn sâu thẳm trong gốc rễ của sự vật, ở cội nguồn, nơi có hiện thực tâm linh tương cảnh.

Khoa chiêm tinh học, kiến thức mới sống dậy của phương Đông xa xưa rất am tường về sự tương đồng tâm linh.

Theo ngành khoa học này hiện thực xanh non tồn tại dưới sự trị vì của sao Vệ nữ. Ngày của nó là thứ sáu; số của nó là 6; kim loại của nó là đồng; đặc tính của nó là cảm xúc; thời gian của nó từ năm 10 đến năm 14. Ở các bộ phận cơ thể con người nó là ngực, là bộ phận sinh dục, là máu, là sự ẩm ướt.

Người- Vệ nữ thích sống dưới những triền đồi hoặc trong các nhà vườn rậm rạp. Những người-Vệ nữ thường là nghệ sĩ, vũ nữ, buôn thời trang, người đi săn; đá quý của nó là ngọc, san hô và ngọc đỏ; các con vật của nó là ong, bướm, bồ câu, con công, con dê; cây của nó là cây sim, cây vả, hoa hồng, hoa huệ; đặc tính của nó: nữ tính, quyến rũ một cách lạnh lùng.

Nhưng, đây là một tri thức khác hẳn hoàn toàn với khoa học tự nhiên. Và mối liên hệ của nó cũng hoàn toàn khác biệt. Chỉ là sự tương đồng linh hồn giữa con số, ngày, cây cỏ, thú vật, tính chất và các bộ phận cơ thể.

Khoa học châu Âu cho rằng thiên nhiên là thứ tự vô tận của những nhân tố đã được suy luận hợp lý. Thật là một quan niệm ấu trĩ. Đằng sau thứ tự vô tận ấy không có gì hết. Hay đúng hơn đằng sau thiên nhiên là KHÔNG CÓ GÌ

Thuyết tâm linh nhìn nhận khác. Thiên nhiên là hằng hà sa số những thực thể. Và thực thể sống ở đằng sau người làm cho sự sống ấy trỗi dậy.

Đằng sau các hiện tượng là LINH HỒN TẠO HÓA, trị vì tại điểm giữa của thế gian, và vô hình, chỉ trong các tác phẩm mới nắm bắt được.

Với châu Âu khoa học tự nhiên, thiên nhiên chỉ là một hệ thống máy móc, đằng sau nó KHÔNG CÓ GÌ ẩn náu. Với thuyết tâm linh, thiên nhiên là thế giới của những thực thể sống, đằng sau nó là TẠO HÓA.

Nhưng nếu ai tin rằng, thuyết tâm linh là đối ngược của chủ nghĩa duy lý, người đó đã hiểu sai hoàn toàn. Tuyệt đối không phải như vậy.

Thuyết tâm linh là một tri thức nhìn thấy sự  thống nhất của mọi sự vật, trong khi khoa học không nhìn thấy. Mọi sự vật đều là một: kể cả cái có sự sống, kể cả cái máy móc. Chính vì thế nó là tâm linh.

Nó nhìn thấy điểm giữa, nơi từ sự sống thành cái máy móc, từ cái máy móc sẽ biến thành sự sống, nó nhìn thấy tâm điểm và THỰC THỂ, thấy TẠO HÓA, làm ra từ sự sống cái máy móc, và từ cái máy móc ra sự sống.

Bởi vậy thuyết tâm linh không phải sự đối ngược với khoa học: thuyết tâm linh là mức độ cao hơn của tri thức. Rất có thể con người sẽ đạt đến mức cao nhất của tâm linh.

-5-

Thiên nhiên kiểu Wordsworth là thiên nhiên xanh, thứ xanh non tâm linh đã thấm đẫm trong sự vật. Wordsworth viết về thiên nhiên nước Anh. Nếu ông nói về phong cảnh nước nước Pháp, cũng vẫn là nước Anh, bởi chất tự nhiên của thiên nhiên trong ông là nước Anh. Đấy là một màu xanh non nhất định.

Trong những thi phẩm lớn luôn luôn có màu sắc, âm thanh, có một bản năng không lý giải được nằm sâu thẳm trong đó. Những triết lý trong đó có thể mang màu tía đỏ, màu xanh biếc, màu vàng, màu trắng.

Thi phẩm của Wordsworth xanh non như ý nghĩa một câu nói của Goethe: màu xanh non là màu ít tính người nhất, nó nằm rất xa thế giới con người, và màu sắc này có thể tiêu hóa con người.

Màu xanh kiểu Wordsworth là màu xanh non của đảo nước Anh, những cây cổ thụ, những bụi xanh rậm rạp, những lùm cây, đồng cỏ, công viên, những thảm cỏ dày, là màu sắc g- moll nước Anh ẩm ướt tỏa ra từ không khí luôn luôn đầy hơi nước. Nước Anh là nơi lý tưởng để ai muốn chiêm ngưỡng một hiện thực xanh non.

Sự tồn tại của các phần tố là một giới tính của cảm giác cháy.

Thiên nhiên kiểu Wordsworth là một cảm giác cháy như thế, một sự bốc lửa xanh, ngọn lửa xanh non ngùn ngụt, màu xanh cháy bỏng và sôi sùng sục. Như Schuler viết: Urfyr- Úr- Feuer- nghĩa là ngọn lửa cổ, là ngọn lửa cháy trong các đám cỏ.

Phút giây này, khi trên trái đất cổ, mới chỉ là đá xám xịt, không là gì khác, và trên biển cổ, thứ nhợt nhạt không màu, sự sống nhóm lửa, đá xám bén lửa từ những tảng rêu đầu tiên, và biển không màu từ những đầm lầy đầu tiên bắt đầu cháy lên.

Đấy là lửa của SỰ SỐNG ĐẦU TIÊN. Ngọn lửa đầu tiên, ngọn lửa màu xanh- Urfyr. Và màu xanh non là màu đầu tiên trên trái đất, nên sinh vật, thực thể đầu tiên trên trái đất, thực thể sơ khai nhất, đơn giản nhất, xanh non, thực thể- tháng Năm, thực thể lạnh lẽo, đơn độc, trơ trụi. Thực thể này là: titán.

Một cuốn sách lớn của tương tác tâm linh là cuốn  Tử Thư Tây tạng (Bardo-Tödol)  cuốn Tạng Thư Sống-Chết  đã nói rằng màu xanh non là màu của bản năng quyền lực. Là màu đầu tiên, cơ bản, hoang dã, nguyên thủy, nguyên vẹn, không thể phá vỡ nổi và đậm đặc, không thể dạy dỗ và không thể thuần phục được.Nó sâu đậm hơn mọi tri thức, sâu đậm hơn mọi cảm xúc, nó là sự cứng rắn phi thường, là bản năng, là sự khăng khăng, là cái đơn giản sơ khai nhất.

Màu xanh non có liên quan đến LINH HỒN ĐẦU TIÊN, và LINH HỒN ĐẦU TIÊN với SỰ SỐNG ĐẦU TIÊN.

Và SỰ SỐNG ĐẦU TIÊN này chính là THỰC THỂ XANH nổ tung cùng những đám rêu và những đầm lầy sơ khai nhất, một thứ màu trong toàn bộ sự sống chưa nhận biết cái gì hết, chưa nhận biết đàn ông, đàn bà, sự thiện cảm, sự căm ghét, mối quan hệ, cộng đồng, chưa nhận biết về bất kỳ điều gì, chưa hiểu gì, không có, chưa thể có cảm xúc, dục vọng, ý nghĩ, chỉ là một bản năng quyền lực cơ bản, mơ hồ- là CÁI TÔI, đấy là titan. Màu xanh non là màu titan.

Khi con người nghe thấy từ titan, người ta nghĩ đến kẻ khổng lồ thần thoại. Những kẻ tìm ra quả đất trước khi có sự xuất hiện của các vị thần. Bởi vì thần thoại cũng biết rằng, chúng là những thực thể đầu tiên trên quả đất. Rồi sau đó, các vị thần được sinh ra, chiến tranh bắt đầu xảy ra giữa các vị thần và titan. Các vị thần chiến thắng, họ xích các titan xuống dưới lòng đất.

Tất nhiên thần thoại chưa bao giờ là cổ tích.

Nó có ý nghĩa sau đây: sau LINH HỒN ĐẦU TIÊN các linh hồn khác được tiếp tục sinh ra, và chiến tranh bắt buộc phải xảy ra giữa chúng. Tại sao? Các titan giao chiến. Tại sao lại là họ? Bởi họ là bản năng quyền lực (Vaulting ambition), và bản năng quyền lực kêu gọi chiến tranh. Các linh hồn thần thánh chiến thắng titan, và trói xiềng chúng vào lòng đất, ấn chúng vào màn đêm tăm tối. Cái ngày nay người ta gọi là sự vô thức.

Và tất cả chúng ta đều mang trong mình một gã khổng lồ bị xích, một titan rơi xuống và bị giam cầm trong vô thức. Bởi tất cả chúng ta đều giữ gìn trong bản thân mình bản năng quyền lực sơ khai không thể khuất phục nổi của LINH HỒN ĐẦU TIÊN.

Bởi vậy tất cả mọi người giữa chúng ta, tự bản thân họ, một cách trực tiếp, từ chính bản thân nhận ra THỰC THỂ XANH, kẻ đến đây cùng rong rêu, và là kẻ đầu tiên giữa bao nhiêu kẻ, tên khổng lồ dậm chân và thở hổn hển trong sâu thẳm, nguyền rủa và lay chuyển dây xiềng xích.

Tất cả mọi người đều biết có titan, bị chôn sống dưới lòng đất, những thực thể- tháng Năm đơn giản, những kẻ giống như tiếng hú từ trên đỉnh núi, những thực thể trần trụi, lạnh lẽo và đơn độc, những kẻ xuất hiện từ buổi sơ khai ban đầu, khi tất cả chỉ là MỘT- những LINH HỒN ĐẦU TIÊN mang giới tính cổ xưa.

Tri thức Ai cập cổ và từ đó sản sinh ra mật tông (hermetikus) truyền thống, cùng  thuật Luyện kim (alkimia)  đều biết đến thực thể titan và màu xanh non này.

Người ta gọi Prima Materia là CON SƯ TỬ XANH. Đấy là con người thiên nhiên, kẻ không là gì khác, chỉ là thiên nhiên, là vật chất nguyên thủy nhất của con người phát triển, con người tinh thần, con người thượng đế. CON SƯ TỬ XANH là vật chất cổ của con người thượng đế.

Cùng lúc xanh non là màu của LINH HỒN THIÊNG LIÊNG. Điều này có nghĩa là gì, không một ai biết.

Có thể nhắc đến những liên hệ xa xôi, nhưng lúc này chẳng dùng vào mục đích gì. Ai tò mò, hãy tìm tác phẩm chương viết về bộ quần áo XANH trong tác phẩm của San Juan de la Cruz, rút ra bài học từ đấy, và đến gần hơn với những nhóm màu xanh. Jakob Böhme cũng nói về điều này trong Morgenröte .

Tác giả viết, sự ra đời của thiên nhiên diễn ra không dễ dàng và nhẹ nhõm…không thiêng liêng và cũng chẳng trong sạch như chúng ta tưởng…

Trong thiên nhiên luôn có cơn giận giữ của Thượng đế với màu xanh non, giống như ngọn lửa địa ngục: der Zorn Gottes ohn Unterlass grünet Gleich dem höllichen Feuer

-5-

Thiên nhiên của Wordsworth là thiên nhiên xanh non, là thế giới của LINH HỒN ĐẦU TIÊN, thế giới titan. Nếu con người đọc thi phẩm của linh hồn titan này, đôi khi không cưỡng lại được cảm giác buộc phải tin: titan đem lòng yêu thiên nhiên. Đúng thế.

Thực thể này cần phải yêu nữ hoàng xanh, thần Vệ nữ, chính là thiên nhiên. Nếu một người nào đấy muốn nắm bắt được phần tinh túy nhất, sâu thẳm nhất của linh hồn titan, cần phải biết: đấy chính là tình yêu thiên nhiên. Những linh hồn titan thờ phụng thiên nhiên, phải lòng thiên nhiên. Đấy là tình yêu không thể giãi bày hết với thiên nhiên, đi kèm với toàn bộ hậu quả của cái cao quý, lớn lao, của cái khủng khiếp và cái rùng rợn. Đấy là điều thi phẩm Wordsworth phản ánh.

Bởi vậy nó cắt đứt với con người, trong đó không có tình bạn, tình yêu, sự chia xẻ, sự hy sinh, sự thông cảm. Titan không là gì khác ngoài việc phải lòng thiên nhiên.

Một cách định mệnh, mù lòa, như một linh hồn titan không thể khác ngoài mù lòa và định mệnh.Titan là thực thể cực kỳ và cao cả, cùng lúc cũng là thứ vô lương tâm. Vừa giống các vị thần vừa là quái vật. Hoàn toàn chỉ có sự cao cả, cái đẹp, sức mạnh và sự tàn ác. Đấy cũng là tình yêu thiên nhiên, là thi phẩm của Wordsworth: triết học xanh.

Nhưng điều này không đúng. Ít nhất không như ngay khoảnh khắc đầu tiên người ta tưởng thế. Tại sao? Bởi vì LINH HỒN ĐẦU TIÊN, THỰC THỂ XANH chưa biết đến, tình yêu là cái gì. LINH HỒN ĐẦU TIÊN mang giới tính cổ.

Tất cả những gì nó đã trải qua, nó đều giữ trong nó và chịu đựng. Nó chưa hướng ra phía ngoài. Nó chưa nhận biết về giới tính khác, bởi vì lúc đó chưa có giới tính khác. Cả hai giới tính có trong nó, trong giới tính cổ cả hai giới tính lớn lên cùng nhau. Giới tính cổ không phải là một đàn ông cộng một đàn bà, tuyệt đối không hợp cùng hai nửa đã bị tách; vì nó sẽ thành hai giới tính. Giới tính cổ chưa đạt đến chỗ biết về hai giới tính và nhận biết tình yêu.

Linh hồn titan không phải lòng thiên nhiên, nó không yêu thiên nhiên, không căm thù, không đánh nhau với thiên nhiên cũng chẳng ngưỡng mộ. Thiên nhiên đối với nó là khả năng đầu tiên của sự hiện diện. Tận cùng nhiều hơn, so với tất cả mọi tình yêu và tình thương yêu. Nhiều hơn cả tư tưởng, ý chí, sự hoạt động, sức mạnh hành động, tinh thần cùng dục vọng. Đối với titan thiên nhiên là thức ăn, là sự ngây ngất, là chiến lợi phẩm, là cuộc phiêu lưu. Và còn hơn thế nữa.

Thiên nhiên đối với LINH HỒN ĐẦU TIÊN: là niềm hạnh phúc. Hạnh phúc như thể điều này ở bên trong nó, đặc quánh và thơm ngào ngạt như mật ong, tan ra trong nụ cười. Niềm hạnh phúc như thể có cùng tình yêu, rượu, cái hôn, sự đê mê, ánh sáng, cái đẹp và sự chiến thắng. Bất kỳ linh hồn khác nào đều không nhận thức được cảm xúc trên cả cảm xúc này. Bởi cảm xúc này nhiều hơn cả cảm xúc. Đấy là: sự tồn tại.

Chắc chắn các vị thần sinh ra sự tồn tại này. Niềm hạnh phúc tan ra trong nụ cười và thơm ngào ngạt như mật ong này là mẹ của các vị thần. Khi các vị thần được sinh ra họ lập tức ghen tị với cái cảm xúc trên cả cảm xúc này của LINH HỒN ĐẦU TIÊN. Họ ghen tị và muốn dành lấy toàn bộ cho họ. Họ không hiểu, không ai có thể muốn mẹ một cách không bị trừng phạt.

Các vị thần chiến thắng titan, nhưng họ không nhận được niềm hạnh phúc. Niềm hạnh phúc cũng trôi qua, chìm xuống, nơi có các titan: dưới lòng đất. Từ thi phẩm của Wordsworth có thể đọc thấy tất cả những điều này, như đọc chữ từ giấy. Trong bài thơ Intimations of Immortality không là gì khác ngoài một thi phẩm của niềm hạnh phúc CỔ, thông qua thuở ấu thơ trở lại với LINH HỒN ĐẦU TIÊN.

Và từ đây đột nhiên ta chợt hiểu, những năm tháng đầy lo toan của ta chỉ là vài khoảnh khắc trong nỗi im lặng vĩnh cửu, và tại đây ta đạt đến một nơi sâu thẳm mà nước mắt không bao giờ có thể rơi tới. Những lo toan tan biến vào cái im lặng vĩnh cửu, từ nơi sâu thẳm, buổi ban đầu cổ xưa, ta không nhận ra cái gì khác ngoài sự tồn tại thơm ngào ngạt của mật ong tan chảy.

-6-

Cái cô đơn kiểu Wordsworth là cái cô đơn của thực thể cổ trên quả đất. Nó không gặp gỡ, không tìm kiếm, không quen biết mối quan hệ với thế giới con người.

LINH HỒN ĐẦU TIÊN chưa quen biết con người. Nó không biết sự hợp tác là gì, cộng đồng là gì, sống chung nghĩa là sao, và yêu là cái gì. Nó không có tri thức con người mà có tri thức cổ.

Tri thức cổ là cái gì vậy?

Đấy là không của con người, không của tinh thần, không của vật chất, không của các vị thần, mà của titan. Cô đơn. Xanh non. Nó có nỗi đam mê Xanh, máu xanh, cảm giác xanh, linh hồn xanh. Nó uống say và đi lại, tác động bằng cái xanh non của titan, nó cháy trong ngọn lửa xanh của SỰ SỐNG ĐẦU TIÊN. Đối với nó thế giới cảm xúc của con người xa lạ, xa lạ như tinh thần, thành phố, gia đình, tình bạn. Nó nửa thần, nửa quái vật, là thú vật, cây cỏ, đất và đá, là khí ê ter và biển.

Thi phẩm của Wordsworth là triết học màu xanh. Nhưng nếu đã là triết học thi ca, nó có nghĩa không chỉ một quan điểm.

Trong thi ca luôn luôn có một phép màu tích cực. Không chỉ cái nhìn mà cả mãnh lực nữa. Wordsworth không chỉ mở tung ra và thể hiện, ông còn gieo trồng và thực hiện nữa. Cái gì? Màu xanh non. Thiên tài của thi ca có họ hàng với LINH HỒN ĐẦU TIÊN, trong nó tất cả là MỘT.

Thi sĩ có họ hàng với titan. Tác phẩm và sự hành động nằm trong MỘT. Các nhà thơ và sức mạnh sáng tạo của các titan gần như là thượng đế. Nhưng sự sáng tạo titan của LINH HỒN ĐẦU TIÊN chính là sự sáng tạo xanh, và phép thuật (magia) của nó là phép thuật xanh.

Tất cả mọi người đều biết, có phép thuật đen của những hành động đen, có phép thuật trắng của những hành động màu trắng. Nhưng có cả phép thuật vàng, đỏ tía, xám, màu hoàng kim, màu tím.

Nhưng phép thuật của LINH HỒN ĐẦU TIÊN sáng tạo ra sự TỒN TẠI ĐẦU TIÊN, cái cô đơn, máu trần trụi và lạnh, sự bùng nổ khai sơ đầu tiên của sự sống, thế giới g-moll tháng Năm của titan, thế giới xanh non. Đấy cũng chính là thế giới của Wordsworth.

-7-

Nhiều lần chúng ta nói đến thuyết tâm linh (misztika) và phép thuật (magia). Con người hiểu như thế nào đấy hai từ ngữ này hòa làm một bằng cách nào, và tách ra bằng cách nào: như thế nào là một, như thế nào là hai. Và : hai, còn có thể hiểu được, nhưng: một, ít người hiểu.

Thuyết tâm linh nhất thiết là một quan sát đã trải. Cái đặc trưng cho nó, không chỉ là sự gắn bó của một quan sát với cái đã từng trải, mà sự quan sát đã trải qua này cùng lúc còn diễn tả một cái gì đó. Con người làm quen với khái niệm tâm linh, khi nhận ra mối quan hệ giữa những hiện tượng nhìn thấy được và những hiện tượng không nhìn thấy được. Par excellence hành vi tâm linh: all things are only emblems – tất cả mọi vật chỉ là tượng trưng.

Còn có một cái gì nhìn ra được của cái khác, sâu sắc hơn, bản chất hơn, bí ẩn hơn, một trải nghiệm, một cảm nhận, một sự thể hiện ra ngoài. Tâm linh từ một mặt khác nhận ra, trải qua và thấu hiểu được cái không nhìn thấy. Mặt không nhìn thấy, mặt vô hình này người ta gọi là tri thức. Bởi tri thức nằm bên trong, dấu kín trong sự vật, ẩn sâu trong hiện tượng.

Con mắt tâm linh nhìn thấy tri thức của hiện thực, nhìn thấy ý nghĩa của hiện tượng, nhìn thấy, đằng sau vật chất là tinh thần, đằng sau thể xác là linh hồn. Nhưng cái nhìn tâm linh có thể nhận ra từ cái khác nữa. Bởi tâm linh không chỉ là nhận ra mà còn là tri thức.

Müsztész nghĩa là đã được thấm đẫm. Đấy là cái gì, cái mà müsztész biết và được thấm đẫm trong cái gì? Biết và được thấm đẫm trong một khả năng biết: TẤT CẢ LÀ MỘT. Con mắt có khả năng tâm linh nhìn thấy một lúc toàn thể thế giới, thống nhất và trong MỘT, ở nơi tất cả là MỘT.

Như vậy nếu ai hỏi tâm linh( misztika) là gì, cần phải trả lời: là khả năng nhìn thấy, trải qua và hiểu được vào sâu thẳm, ẩn dấu đằng sau sự đa dạng vô tận của thế giới, đấy là cái DUY NHẤT MỘT của số nhiều.

Phép thuật (magia) có họ hàng với tâm linh, nhưng vẫn tách biệt. Bởi nếu con người nhìn, hiểu, trải qua, và biết, nhưng vẫn chưa đụng vào sự vật, vẫn chưa thay đổi sự vật. Tâm linh không hành động, chỉ nhìn thấu và biết. Nhưng phép thuật lại chính là sự hành động. Phép thuật cũng hiểu biết như tâm linh, nhưng cùng lúc tham dự luôn vào sự vật, và thay đổi hoặc tạo ra chúng.

Ví dụ không cần nhiều. Ta lấy ngay trường hợp của Leonardo da Vinci. Tất cả mọi người đều có thể lấy cuốn sơ đồ và xem xét, hệ thống cấu tạo xương , các bắp thịt của con người, cấu tạo của động vật và thực vật được vẽ ra toàn bộ chính xác đến mức máy móc, như thể một cái động cơ máy sống động, một máy tưới nước, một cái tàu thủy hoặc một cái nhà.

Trong con mắt, trong sự ngắm nghía và trong bản chất của Leonardo có một cái gì đó có thể mang lại một tên gọi chung cho một động cơ máy hoặc một hệ thống cơ bắp. Ông biết, nhìn thấy, hiểu và trải qua điều nói lên rằng trên thế gian có một nơi mà thực thể sống hữu cơ và phát minh máy móc đều là một.

Leonardo nhìn một cách tâm linh. Từ cái nhìn này giữa cây cỏ, thú vật, đá, máy móc nhân tạo, nhà, con người, tinh thần không có bất kỳ sự khác biệt nào. Tất cả là MỘT. Để một thứ thành máy móc, một thứ thành thực thể sống, là mãi về sau này, tình cờ và nông cạn, đều chỉ là hiện tượng. Nhìn như thể không là MỘT. Nhưng nếu con người nghĩ sâu hơn một chút, sẽ tìm thấy một điểm, nơi cái đầu máy xe lửa và bông hoa, cái máy dệt và con người tan vào làm MỘT.

Leonardo có con mắt tâm linh. Nhưng sự việc chưa dừng ở đây. Bởi Leonardo còn có một đôi tay có phép thuật. Nhưng sự việc cũng vẫn chưa dừng lại ở đây, bởi đôi tay và đôi mắt ở ông là MỘT, và là MỘT từ cái nhìn đến hành động. Tất cả đều là MỘT. Nếu cái MỘT này chỉ nhìn, thấy, và biết, trải qua và hiểu, cái đó gọi là tâm linh; còn nếu cái MỘT này sáng tạo, dựng nên, hành động, làm, người ta gọi là phép thuật.

Chúng ta biết có những con người biết biến những sức mạnh máy móc thành sức mạnh của sự sống, cũng như biến những sức mạnh sống tầm thường thành mang tính máy móc. Bởi vì toàn bộ nền kỹ thuật không là gì khác, ngoài việc chuyển những sức mạnh sống của con người thành sức mạnh dành cho thế giới máy móc. Kỹ thuật: là hành động của con người, nhưng không phải với con người, mà với máy móc. Nhất là ở phương Đông, ngày xưa, các nhà phù thủy làm ngược lại: từ máy móc biến thành thực thể sống, như ngày nay người ta hóa phép sự sống thành máy móc. Tất cả đều phụ thuộc, là con người có đạt được hay không đến vị trí mà sự sống và máy móc là MỘT, hay nói cách khác, nơi tùy theo ý muốn có thể biến sự sống thành máy và máy thành sự sống.

Kẻ có phép thuật là một thực thể có thể chạm vào tận gốc rễ sự vật, và một cách tự do, theo tri thức của họ biến những sức mạnh sống thành cơ khí, hoặc sức mạnh cơ khí thành sức mạnh sống. Phép thuật: có khả năng thực hiện được tư tưởng.

Sau tất cả những điều này, con người cần hiểu: có một THỰC THỂ, mà trong nó tâm linh và phép thuật cũng là một. Là một như cái nhìn và tri thức, sự trải qua và thấu hiểu nhất trí hoàn toàn với hành động, với sự sáng tạo và xây dựng nên. Là một, như khi nó thấy, là đã dựng tạo, và khi nó biết, là đã sáng tạo. Tư tưởng đã được thực hiện.

Đấy là một thực thể, trong nó tất cả là MỘT: THỰC THỂ ĐẦU TIÊN- LINH HỒN ĐẦU TIÊN trong cỗi rễ và xuất thân của mọi sự tồn tại đấy là viên đá, là tri thức, hành động, ý  muốn, cuộc sống, sự đam mê đầu tiên. Đấy là THỰC THỂ ĐẦU TIÊN- THỰC THỂ XANH, là titan.

-8-

Một từ to lớn của thế giới con người: tình yêu thương. (*)

Wordsworth là người Anh, trong ngôn ngữ của ông điều này vang lên thật hoàn chỉnh: bởi love, cùng lúc là yêu và yêu thương. Một sự quyến rũ say đắm buộc con người với nhau, giống như Eros của Hy lạp. Eros là nhân tố cơ bản tâm linh của cuộc sống, số phận và hiện thực của tất cả con người ngày nay.

Nếu hai con người cùng với nhau, đấy là định luật của Eros. Và điều tốt nhất dành cho con người: cùng nhau. Thiếu Eros không thể cùng nhau. Những gì to lớn và tốt đẹp trong cuộc sống của con người, gia đình, tình yêu, cộng đồng, quốc gia, nhân loại, đều là món quà của Eros.

Cội rễ của sự sống xanh không phải là Eros. Nó là một từ khác: hạnh phúc. Niềm hạnh phúc không bao giờ chung, không có tính phổ biến, không tập thể. Mỗi người hạnh phúc cho riêng họ cũng như đối với mỗi người: yêu là khác. Bởi vậy hạnh phúc đi kèm với cô đơn, như tình yêu thương đi kèm với cộng đồng. Người cô đơn không biết, yêu nghĩa là gì. Không mong muốn tập thể. Không thích chung sống. Giá trị cuộc sống của nó: niềm hạnh phúc. (chú thích: Ta sẽ quay lại vấn đề mục đích tối hậu của cuộc sống theo Aristoteles)

Tất nhiên thế giới không chỉ có hai từ này. Bên cạnh TÌNH YÊU THƯƠNG và NIỀM HẠNH PHÚC còn có: TRI THỨC, CÁI ĐẸP, QUYỀN LỰC, HÒA BÌNH, SỰ ĐAM MÊ. Sự tồn tại đầy rẫy những từ ngữ to lớn, như đầy rẫy các linh hồn, và mỗi linh hồn có bản thân từ ngữ to lớn của nó.

LINH HỒN ĐẦU TIÊN sống trong cảm xúc trên cả cảm xúc, trong niềm vui và sự ngây ngất đầu tiên, sơ khai, thứ sâu sắc hơn cả tình yêu thương, sâu sắc hơn cả đam mê; sâu sắc hơn cả tri thức- sâu thẳm đến mức nước mắt không bao giờ rơi xuống đến đó: đấy là niềm HẠNH PHÚC, mà từ đấy các vị thần sinh ra.

Cũng đủ nếu con người nghĩ đến bản giao hưởng số 9 của Bethoven, đến đoản khúc- Niềm vui  và Dionysus của Schiller. Cũng đủ nếu con người nghĩ, ngày hôm nay người ta vội vã đổ xô đến sở chứng khoán, nhà hát, hiệu sách, nơi giải trí, thể thao chỉ vì một chút niềm vui. Cũng đủ nếu con người nghĩ, người ta lấy nhau, yêu nhau, kết bạn, đánh nhau, vui chơi vì một giây phút hạnh phúc.

Sự nỗ lực của người hiện đại là niềm vui và niềm hạnh phúc. Tác phẩm Dionysus, đoản khúc-niềm vui và bản giao hưởng số 9 của Bethoven là sự bùng nổ của thiên nhiên titan trong con người. Niềm vui và niềm vui và niềm vui- niềm hạnh phúc, trên tất cả là niềm hạnh phúc: cảm giác cao cả, đông đặc, thẩm thấu có vị ngọt ngào như mật tan ra của sự hiện hữu đầu tiên.

Sự ngây ngất làm MỘT của TẤT CẢ, sự tụ hợp của tất cả nhân tố trên thế giới- Seid umschlungen Millionen – như Schiller đã viết, như âm thanh vang dội của Bethoven, và như Dionysus vượt ra khỏi mọi biên giới kìm hãm tạo nên một TỔNG THỂ VĨ ĐẠI.

Niềm vui không là cái gì khác ngoài biến thành MỘT.

Joy for ever.

Younghusband, nhà triết học của niềm hạnh phúc nói: hạnh phúc cơ bản hơn tình yêu thương, bởi vậy nó cũng cao cả hơn, in its highest forms, Happiness surpasses ever Love- hạnh phúc trong hình thức cao nhất nhiều hơn Eros, sâu sắc hơn và cổ kính hơn.

Niềm vui vượt qua sự khoái cảm tầm thường, như vượt qua sự sợ hãi, vượt qua cả sự thông thái và vượt qua cả tình yêu thương. Thực ra không có gì khó hiểu. Một cách như thế nào đấy rõ ràng, TÌNH YÊU THƯƠNG không chỉ là từ ngữ, mà là THỰC THỂ nữa, nữ thần làm cân bằng sự đối chọi, Aphrodité hay Venus, hoặc Sophia hay Urania hoặc Jin. (**)

HẠNH PHÚC không phải đàn bà (***): như khi nó quá cả sự thông thái, nỗi đam mê, tri thức, tình yêu thương, nó vượt quá cả giới tính luôn. Hạnh phúc là titan, là THỰC THỂ ĐẦU TIÊN, là THỰC THỂ, là LINH HỒN, và vì vậy nó mang giới tính cổ. Hạnh phúc là ý nghĩa của sự sống xanh, là bắt đầu của sự bắt đầu: là cảm xúc.

Hạnh phúc là cảm xúc đầu tiên nhất của LINH HỒN ĐẦU TIÊN- hạnh phúc là tri thức đầu tiên, là kỷ niệm đầu tiên, là kinh nghiệm đầu tiên, là ý nghĩ đầu tiên, là mục đích đầu tiên. Đây là cảm xúc- nghị lực-ý thức-tư tưởng đầu tiên, đây là THẾ GIỚI và SỰ SỐNG ĐẦU TIÊN, thứ được bồi đắp vào cây xanh, vào đá, vào nước, vào các vì sao, vào con người và vào các vị thần.

Đây là cảm xúc đầu tiên ngự trên quả đất, giống như mảnh nham thể cổ trong quả đất. Hạnh phúc là cảm xúc đầu tiên của thế gian, khi từ sự vô cơ sự sống được tỉnh giấc và đón nhận.

"Chỉ một lần. Luôn luôn chỉ một lần. Luôn luôn là lần đầu tiên, luôn luôn là lần cuối cùng. Không kiếm tìm luật pháp. Trở thành tự do. Không thích nghi. Quyết định. Không là thói quen. Không là ngẫu nhiên. Phiêu lưu. Nguy hiểm. Mạo hiểm. Sự dũng cảm…đứng trên ngưỡng. Trong bước chuyển liên tục.  Sống như đang chết, hoặc chết như đang sống. Kẻ nào đạt được điều đấy, kẻ đó tự do. Và nếu tự do, nó thấy không gì xứng đáng bằng cái nhiều nhất. Yêu thương." - Hamvas Béla

 

(*) (Thế giới con người, Weltschmerz, và bức tranh thế giới Đại Đồng (Universal World))

(**) (Chú thích: Nữ thần sắc dục, nữ thần sắc đẹp, nữ thần trí tuệ, nữ thần thiên văn)

 (***) (chú thích: Anima/Animus của Carl Jung, nên hiểu nó theo “In good faith”,- thiện chí, không chỉ nên hiểu là “đàn bà”, mà đàn ông cũng vậy)

 

 

 

 

 

 

Khái niệm về Anima (ẩn nữ) của đàn ông theo Carl Jung

Carl Gustav Jung   (26/7/1875 - 6/6/1961) là một bác sĩ tâm lý học, tâm thần học người Thụy Sĩ. Nổi tiếng với việc thành lậ...