Thứ Tư, 2 tháng 12, 2020

Tài liệu tham khảo: Vài ghi chép về tư tưởng của John Stuart Mill.

 Note: Lấy từ bài viết của Nguyễn Huy Tử Quân.

                                                 


Giả sử có một vườn địa đàng (Utopia) mà ở đó con người không những tôn trọng tự do của người khác, đối xử khoan dung với khác biệt, mà còn biết đồng cảm và đùm bọc lẫn nhau, thì hẳn là nơi ấy không cần đến triết học và luật pháp. Nhưng kể từ khi Adam và Eva bị ném khỏi thiên đàng, nhân loại đã chịu phán quyết phải sống trong một thế giới mà cái ác là không kì lạ, sự truy bức hay áp đặt là không hề kém phổ biến. Nói như Isaiah Berlin, tự do và khoan dung chỉ như những ốc đảo hiếm hoi giữa sa mạc của tính đồng phục, bất khoan dung và tình trạng đàn áp con người.[1]

Vì lẽ ấy mà lịch sử nhân loại, biết bao con người đã lên án tình trạng kinh khủng ấy và tha thiết bảo vệ cho tự do. Thời đại Victoria ở nước Anh chứng kiến một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất đến công cuộc ấy – John Stuart Mill. Ông không chỉ là người mở ra một xu hướng mới trong triết học chính trị (xu hướng xác định ranh giới của tự do cá nhân và sự can thiệp hợp pháp của xã hội), mà còn là người đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho những ai đang đấu tranh bền bỉ chống lại uy quyền. Bài luận ngắn dưới đây trình bày (1) nền tảng cho tư tưởng của Mill, (2) những nét chính trong tư tưởng của ông, và mạn phép (3) trình bày một vài suy nghĩ về tư tưởng này.

Nền tảng lập luận của Mill

Trước Mill, có 2 mô hình triết học liên quan đến tự do khác. Mô hình thứ nhất là của Kant, chủ trương rằng nhờ có tự do mà con người thoát khỏi tính tất yếu của thế giới tự nhiên, và tự mình ban bố các quy luật cho riêng mình trong thế giới tinh thần để từ đó làm nền tảng cho cơ sở đạo đức. Cũng chỉ nhờ tự do này mà con người khác với con vật, trở thành sinh vật có phẩm giá.. Mô hình thứ 2 của Hegel, chủ trương rằng tự do tất yếu sẽ được hiện thực bởi quy luật lịch sử. Mill mở ra một xu hướng nghiên cứu mới, nhằm nỗ lực xác lập ranh giới hợp pháp giữa tự do cá nhân và can thiệp xã hội.

Tuy nhiên, quan điểm của Mill lại rất khác những người đi trước. Ông khước từ bất cứ ý tưởng nào về pháp quyền trừu tượng như một thứ độc lập với tính hữu ích[2]: Mill không tin tưởng vào các quyền tự nhiên của John Locke, cũng không tin vào bản chất tự do mang tính siêu hình học của Kant, càng không tin vào sự tất yếu lịch sử mà Hegel trình bày. Trong những lập luận sau, ta cũng không thấy ông nhắc đến khế ước xã hội, dù ông vẫn nói ở một số đoạn rằng “sự đồng thuận là cơ sở để xác định ranh giới của tự do cá nhân và can thiệp xã hội”.

Cơ sở lập luận dựa trên thuyết công lợi

Là học trò cưng của ông tổ thuyết công lợi Jeremy Bentham, đồng thời là con trai của James Mill – một môn đồ trung thành với lý thuyết ấy, Mill chịu ảnh hưởng lớn bởi học thuyết này. Ông khẳng định rằng tất cả những gì ông quan tâm là tính hữu ích.[3]

Thuyết công lợi chủ trương việc đúng phải làm là “việc đem lại lợi ích hay hạnh phúc lớn nhất cho số người lớn nhất”. Tuy nhiên, việc hiểu thế nào là “hạnh phúc” ở Mill và Bentham lại không giống nhau. Trong khi Bentham quan niệm rằng, con người chịu sự cai trị của sự hạnh phúc và đau khổ, cho nên hành động đúng đắn là hành động đem lại sự sung sướng hoặc giảm trừ đau khổ. Khái niệm hạnh phúc của Bentham gần như giống với sự thỏa mãn hơn (pleasure). Ông tin rằng hạnh phúc chỉ có giá trị về lượng mà không có giá trị về chất, nghĩa là nếu việc ăn uống no say cũng làm ta ngây ngất (lượng giống nhau) như khi ngắm một bức họa đẹp, thì không thể nói rằng niềm vui nào “giá trị” hơn niềm vui nào. Triết học của Bentham phải chịu 2 phê phán (điều mà sẽ được giải quyết bởi Mill). Thứ nhất, Thuyết này nhìn nhận bản chất con người một cách quá thấp trên thang nhân bản, đến nỗi khiến cho Carlyle[4] gọi thứ triết học này là triết học lợn (pig philosophy)[5]. Thứ hai, không thể tính toán một cách định lượng tính vị lợi của một hành động, vì vậy sẽ chẳng thể đi tới một kết luận nào về tính đúng đắn hay sai lầm của hành động đó.

Khác với Bentham, Mill đã giải thích hạnh phúc một cách vừa rộng, vừa mơ hồ, đến nỗi nếu đem so với khái niệm hạnh phúc ban đầu, thì cái của Mill chỉ còn cái vỏ bọc ngôn ngữ và ý nghĩa thì đã mất hẳn. Mill nói rằng, “tính công lợi, hay hạnh phúc, là một cứu cánh quá phức tạp hay quá mập mờ, nên không tìm kiếm được, ngoại trừ phải thông qua các trung gian của những cứu cánh thứ cấp đa dạng”[6] Nghĩa là mặc dù ban đầu ông cho rằng tính hữu ích, hay tính vị hạnh phúc là tiêu chí duy nhất để phán xét 1 hành động, ông lại mâu thuẫn khi nói rằng, vì khái niệm hạnh phúc là quá mơ hồi chúng ta không thể dùng hạnh phúc để làm tiêu chí phán xét được. Do đó, ông đề xuất phải theo đuổi các cứu cánh thứ cấp bao gồm (nhưng không phải toàn bộ) sự tiến bộ của nhân loại như một tổng thể, lòng khoan dung, sự tự do và chân lý,… Như vậy, Mill đã mở rộng khái niệm hạnh phúc đến nỗi hệ quả của nó là triết học của Mill, như ta sẽ thấy, không hề mang một chút màu sắc công lợi nào. Và chính vì lẽ đó, thay vì tìm cách sáng tạo ra một “công cụ tính toán hạnh phúc” (hedonist caculus)[7] để xác định tính đúng sai của hành động trong từng trường hợp cụ thể như Bentham, Mill gạt bỏ luôn việc xác định tính đúng sai bằng cách định lượng lợi ích, mà đưa ra nghững nguyên tắc về Tự do có thể áp dụng trong mọi trường hợp, bất kể tính chất vị lợi của nó.

Tiền đề nhận thức luận của Mill

Mill quan tâm đến 3 loại tự do, gồm tự do lương tâm, tự do ngôn luận (chương II) và tự do lựa chọn cách sống của mình (chương III)[8]. Ông khẳng định rằng tự do lương tâm mang tính tuyệt đối, còn tự do ngôn luận là điều kiện cần thiết để tự do lương tâm không trở nên vô nghĩa.

Tuy nhiên, trước khi đi vào lập luận của Mill, cần nhắc đến một tiền giả định về khả năng tri thức của con người mà Mill tin tưởng (mặc dù ông không hề phát biểu và chứng minh về tiền giả định này. Suy cho cùng ông không phải là một nhà nhận thức luận): Mill tin rằng con người có thể sai lầm, rằng chân lý tối hậu và chung cuộc là không thể đạt được. Ông viện dẫn rằng ngay cả khoa học và số học, là những ngành khoa học mang tính chất chắc chắn cao, còn phải dựa vào kinh nghiệm để chứng minh một lý thuyết hay một mô hình; thì cớ gì mà trong các lĩnh vực luật pháp, đạo đức học, chính trị học, triết học hay tôn giáo – những lĩnh vực mà ở đó các lý thuyết chỉ mang tính xác suất, lại có người dám tự tin tuyên bố rằng điều anh ta tin là điều đúng đắn? Điểm này, Mill giống với các nhà thường nghiệm Anh (vốn có nguồn gốc từ Aristole) khi tin rằng, tri thức chỉ có sau thực nghiệm. Và vì vậy, nếu tri thức không phản ánh thường nghiệm thì nó phải bị bác bỏ.[9]

Trái ngược với quan điểm rằng tồn tại một thứ chân lý có trước cả kinh nghiệm, chân lý này có nguồn gốc từ thế giới lý tưởng (Plato) hoặc có nguồn gốc từ Chúa (Kito giáo) và được phát hiện thông qua mặc khải.

Tranh luận giữa 2 phe Aristotle và Plato này, là một tranh luận chưa có hồi kết trong lịch sử triết học về nhận thức. Vì vậy, ta sẽ thấy những câu trả lời của Mill đối với phe phản đối cũng không thực sự mang tính thuyết phục về logic.

Tư tưởng của Mill về Tự do

Mill bảo vệ tự do ngôn luận

Sau khi hiểu được tiền đề ngầm định trong đầu óc Mill, ta bắt đầu xem xét lập luận của ông. Mill lập luận rằng, chính vì không ai là có thể sai, cho nên chính nhờ Tự do ngôn luận mà các ý kiến khác biệt, thậm chí đối lập có thể đối đầu với nhau trên một “thị trường tư tưởng”, để từ đó loại trừ các lý thuyết sai lầm. Ông khẳng định, nếu một phát ngôn là sai lầm, thì phát ngôn ấy sẽ có ích bằng cách giúp cho chúng ta hiểu “một cách sống động hơn về điều chúng ta đang tin là đúng”. Mill thêm rằng, nếu chân lý không bị thách thức, ắt sẽ suy thoái thành giáo điều hay định kiến[10] và đưa xã hội vào tình trạng nô lệ kinh khủng về tư tưởng. Ngược lại, nếu một phát ngôn là đúng đắn hơn các phát ngôn khác, thì nó sẽ giành chiến thắng ở trận đấu cuối cùng, và chính nhờ đó mà nhân loại Tiến bộ hơn, tiến gần hơn đối với Chân lý. Như vậy, với Mill, tự do ngôn luận sẽ luôn đem lại “hạnh phúc” cho nhân loại, vì vậy sẽ không bao giờ là sai lầm, khi ta bảo vệ cho quyền tự do lên tiếng của bất kì ai, kể cả những kẻ mà ta cho là sai lầm hay lố bịch.

Mill bảo vệ tự do lựa chọn cách sống

Một cách tương tự, Mill bảo vệ tự do lựa chọn cách sống cho riêng mình (chương III) cũng bằng lập luận về tính hữu ích. Trước tiên, Mill khẳng định rằng con người không có một bản chất chung nào. Bản chất của con người có thể thay đổi theo vô vàn cách, dựa trên các yếu tố tự nhiên, sự tiếp xúc của anh ta với những người khác, cũng như chính bản thân sự lựa chọn của anh ta về về nên trở thành con người như thế nào vậy. Như vậy, con người trong suy nghĩ của Mill, hàm chứa vô vàn những tiềm năng tốt đẹp (đi kèm với những tiềm năng xấu) mà chúng ta không thể nào hình dung trước. Nhưng không phải khi nào những yếu tố tiềm tàng đó, có thể phát triển thành cái thực tồn. [11]

Mill khẳng định, chỉ khi để cho con người tự do lựa chọn cách sống của riêng mình, thì cái tiềm năng tốt đẹp kia mới có khả năng để chiến thắng cái tiềm năng xấu. Như vậy, nếu ai cũng được tự do lựa chọn cách sống của mình, thì xã hội trở thành một cuộc thử nghiệm trên quy vô rộng lớn về cách thức tổ chức đời sống, chính nhờ vậy mà một cách sống tốt mới có khả năng sinh ra và thuyết phục nhân loại lựa chọn nó, để rồi khiến cho xã hội loài người tiến bộ hơn.

Tuy nhiên, ông không chỉ nhìn tự do này dưới góc độ lợi ích, ngược lại, ông cho rằng sự đa dạng bản thân nó đã là một giá trị đẹp của đời sống. Ông khẳng định rằng, nếu không có tự do lựa chọn cách sống này, thì xã hội loài người sẽ trở nên què quặt và nghèo nàn.

Nguyên tắc Tự do của Mill

Bên cạnh những bảo vệ Tự do của Mill dựa trên tính hữu ích, Mill có một đóng góp lớn cho nhân loại khi là người đầu tiên đặt vấn đề về ranh giới của tự do cá nhân và can thiệp xã hội.

Ông nhìn thấy ở thời đại mình một nguy cơ vô cùng kinh khủng thúc đẩy sự độc tài của xã hội: Tư tưởng (Thanh giáo) chính thống của thời đại Victoria đối với vấn đề luân lý yêu sách sự tuân thủ nghiêm ngặt và triệt để: “trong thời đại chúng ta, từ giai cấp cao nhất cho đến thấp nhất của xã hội, ai ai cũng phải sống dưới con mắt của một sự kiểm duyệt thù địch và đáng sợ”; các điều kiện sống ngày càng tương đồng khiến cho không chỉ lối sống mà cả lối suy nghĩ cũng trở nên rập khuôn: “…đọc, nghe, nhìn cùng những thứ giống nhau, đi đến cùng một nơi, hy vọng và lo âu về cùng một thứ…”.[12]

Trong tác phẩm của mình, Mill liên tục nhấn mạnh rằng, sự đàn áp của xã hội tồi tệ không kém gì sự đàn áp từ nhà nước. Ông cảnh báo rằng cái mối nguy ấy đang ngày một lớn lên. Ông thấy ở đám đông cái tính cách thích đàn áp cố hữu của nó, do vậy ông cũng lo sợ sự suy thoái của tự do trong nền dân chủ, hệt như cách mà Tocqueville đã từng bày tỏ mấy chục năm về trước trong tác phẩm Nền dân trị Mỹ của ông.

Tuy nhiên, không vì thế mà Mill phản đối nền dân chủ. Ông cho rằng nguồn gốc quyền lực của nhà nước xuất phát từ nhân dân là chính đáng nhất. Vì thế, giải pháp ông đưa ra, là vạch một đường ranh giới mà sự can thiệp của xã hội hay nhà nước không thể vượt qua, điều mà sau này trở thành một nguyên tắc có ảnh hưởng rất lớn trong chính trị học: Nhà nước hay xã hội không được can thiệp vào công việc nào chỉ liên quan đến lợi ích của cá nhân; Sự can thiệp chỉ hợp pháp khi hành động của một cá nhân gây thiệt hại cho lợi ích của một cá nhân khác.[13] Ông khẳng định rằng, không thể can thiệp vào lựa chọn cá nhân, nếu ta nghĩ rằng hành vi đó gây tổn hại cho chính họ. Cũng bởi cùng một nguyên nhân như các lập luận trước: không ai có quyền khẳng định cái gì là có lợi cho người khác.

Tuy nhiên, Mill không tin rằng đây là một nguyên tắc tuyệt đối. Ông cho rằng trong những lĩnh vực như giáo dục, lao động, nhà nước có thể can thiệp vào lựa chọn của cá nhân để bảo vệ họ. Trường hợp của giáo dục, nhà nước có thể bắt buộc trẻ em đến trường, nhằm giáo dục cho nó trở thành một người có khả năng lựa chọn đúng đắn. Còn đối với người lao động, Mill ủng hộ các sắc luật giới hạn giờ làm việc, đề ra mức lương tối thiểu để bảo vệ người công nhân. Ông nói rằng cần can thiệp trong trường hợp ấy để kẻ yếu không bị nghiên nát.

Nguyên tắc của Mill cũng gặp một số tra vấn không dễ gì giải quyết. Có người lập luận rằng, ranh giới giữa cá nhân và xã hội là không thể xác định được. Vì tất cả hành động của chúng ta đều ít nhiều liên quan đến người khác. Hay “chẳng ai là một hòn đảo cả” – như cách nói của họ. Sự tra vấn khác đặt câu hỏi, thế nào mới được hiểu là “tổn hại”? Liệu những người hồi giáo cảm thấy bị xúc phạm sâu sắc khi đọc báo châm biếm của Charles Hebdo có phải là một sự tổn hại hay không? Và nếu có thì làm sao biện minh cho tự do thảo luận trong trường hợp này?[14]

Các niềm tin mà Mill không nói cho chúng ta

Đọc tác phẩm trứ danh của ông có thể cho ta cảm giác rằng kết luận của Mill được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn suy lý. Tuy nhiên khi xem xét cuộc đời của Mill, ta thấy rằng dường như Mill bảo vệ tự do một cách mạnh mẽ hơn cách mà một người công lợi có thể hành xử; dường như Mill bảo vệ Tự do như cứu cánh chứ không phải như phương tiện. Bởi ta không thấy đâu trong thực tại những sự đắn đo về tình lợi ích mỗi khi ông lên tiếng bảo vệ tự do của riêng ai hay giai cấp nào. Ông bênh vực cho những kẻ dị giáo, kẻ bội giáo, kẻ báng bổ Chúa, bênh vực cho tự do một cách chân thành trong suốt cuộc đời mình.[15] Ta thấy được sự chân thành của ông khi Mill nói rằng vua Napoleon III là kẻ hèn hạ nhất còn sống; khi ông bày tỏ niềm vui sướng khi dự luật quy định hành vi chống lại sự chuyên chế của các dân tộc thuộc địa bị bãi bỏ; khi ông lên án các Bang miền Nam trong cuộc nội chiến của nước Mỹ; hay khi ông làm dân chúng Anh phẫn nộ vì đã phát biểu ủng hộ những kẻ ám sát Fenian tại hạ viện.[16]

Cuộc đời của Mill là cuộc đời của việc hiện thực hóa những lý tưởng mà ông tin tưởng. Thật khó mà nghĩ rằng ông đã hành động nhiệt thành như thế chỉ vì ông tin rằng Tự do đem lại lợi ích.

Như Bertrand Russell đã nhận xét khi đọc các tác phẩm của Mill, “những niềm tin chắc của các triết gia hiếm khi nào lại chứa đựng ở trong các luận cứ mang tính hình thức của họ; những niềm tin cơ bản, những quan điểm bao quát về cuộc sống giống như những pháo đài phải được bảo vệ chống lại kẻ thù”[17]. Quả thật vậy. Khi đọc Bàn về Tự do cũng như nghiên cứu cuộc đời hoạt động chính trị của Mill, ta thấy rằng Mill rất tin tưởng là Tự do có giá trị tự thân của nó (điều mà ông không thừa nhận). Một minh chứng có thể tìm thấy khi Mill nói rằng, việc các quốc gia thành bang cổ đại ở Hy Lạp ép buộc người dân phải tham gia vào một chương trình rèn luyện thể lực, quân đội và giáo dục bắt buộc để chống lại sự đe dọa từ ngoại bang là tạm chấp nhận được. Nếu Mill là một người công lợi, Mill hẳn sẽ không ngần ngại mà khẳng định rằng sự đàn áp kia là đúng đắn. Việc Mill chỉ nhận xét rằng hành động ấy là chấp nhận được cho ta thấy, Mill đã cho Tự do một giá trị riêng, (và chỉ khi nó xung đột với lợi ích chung của thành bang thì sự hạn chế tự do mới được biện minh).[18]

Những niềm tin của Mill vào giá trị tự thân của Tự do, hẳn xuất phát từ tuổi thơ ngột ngạt và đầy sự áp đặt từ cha ông. Cha ông vì tin rằng một con người duy lý là con người hạnh phúc, nên đã đào tạo Mill thành một người quá thiên về lý tính. Mill đã từng bộc lộ trong Tự truyện của mình rằng, ở tuổi 17, mặc dù có sự hiểu biết của một người có học tuổi 30, nhưng ông lại không hề có khả năng cảm xúc như một con người bình thường. Ông đã trải qua một cuộc khủng hoảng sâu sắc vào thời trẻ, cho đến khi nhận thấy rằng mình có thể khóc lần đầu tiên trong đời khi đọc một tác phẩm văn học Pháp cùng thời. Chính thời điểm bước ngoặt đó, ông đã bắt đầu tìm đọc văn học và thưởng thức nghệ thuật. Hẳn là từ đó, ông đã nhận ra sự nguy hại của việc áp đặt giáo dục, rằng sự áp đặt sẽ làm hủy hoại những khả năng đa dạng và phong phú nơi con người ta.

Chính vì lẽ đó, John Stuart Mill đã trở thành một con người bảo vệ Tự do và đa dạng một cách nhiệt thành như vậy, không phải niềm tin của ông vào thuyết công lợi, cũng chẳng phải vì sự tin tưởng vào lập luận của ông. Mill bảo vệ Tự do, bởi vì ông tin tưởng vào những giá trị tốt đẹp ấy.

Tạm kết

Mặc dù không thể giải quyết được sự tra vấn ấy, chúng ta không thể nghi ngờ về sự đóng góp của Mill đối với cuộc tranh đấu đòi Tự do của nhân loại. Những tư tưởng của Mill đã ảnh hưởng sâu sắc đến cách nghĩ của chúng ta trong thời đại ngày nay, đến nỗi làm cho chúng ta tưởng rằng điều ấy là hiển nhiên vậy. Vì vậy, Mill xứng đáng là nhà tư tưởng về Tự do đáng ngưỡng mộ nhất của thời đại Victoria, không phải vì sự sâu sắc hay thuyết phục trong lý thuyết của ông, mà bởi tình yêu, lòng nhiệt thành và niềm tin tưởng sâu sắc vào Tự do sẽ dẫn đến sự Tiến bộ cho Nhân loại. Thế kỉ XX nợ Mill rất nhiều.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Isaiah Berlin, ‘Tất định luận và Tự do lựa chọn’, Nxb Tri Thức, Trang 202

[2] John Stuart Mill, ‘Bàn về Tự do’, Nxb Tri Thức, Trang 39

[3] Liệu có thật sự rằng Mill không khác gì với các nhà công lợi trước đó, vốn chỉ quan tâm đến tính hữu ích? Điều này được tác giả bày tỏ quan điểm các phần sau

[4] Một nhà tư tưởng thời Victoria. Ông cũng đồng thời là bạn của John Mill

[5] Bùi Văn Nam Sơn, ‘Đọc lại “BÀN VỀ TỰ DO” của John Stuart Mill’, website: tinhthankhaiminh.blogspot.com

[6] Isaiah Berlin, ‘Tất định luận và Tự do lựa chọn’, Nxb Tri Thức, Trang 221

[7] Reds.vn, ‘Tư tưởng đạo đức – nhân sinh: 5 – Chủ nghĩa vị lợi của Jeremy Bentham’, Website:reds.vn

[8] Thực ra Mill còn đề cập đến tự do lập hội, nhưng ông xem tự do lập hội là hiển nhiên không cần phải chứng minh. Có lẽ ông vì đang sống trong điều kiện mà tự do lập hội bị bóp nghẹt, cũng như ông thấy được lợi ích của nó trong việc đấu tranh đòi quyền lợi cho công nhân (Mill chịu ảnh hưởng của Chủ nghĩa xã hội ôn hòa, vốn đang thịnh hành ở Anh Quốc thời đó), cho nên ông chưa tiên liệu được những điều kiện phức tạp có thể sẽ xảy ra khi thực hành tự do lập hội.

[9] Tuy nhiên phải lưu ý, Mill không phải người theo thuyết hư vô, rằng chẳng có chân lý nào trên đời cả. Ông tin rằng tuy không ai có thể chứng minh được điều gì là chân lý, nhưng ông ngầm khẳng định rằng, chúng ta có thể dựa vào thực nghiệm để chứng minh rằng một lý thuyết nào là sai. (Điều sau này được Karl Popper xây dựng thành một lý thuyết gây tiếng vang về Khoa học luận. Do đó, sự tranh luận và đối chiếu vào thực tiễn là không hề vô ích.

[11] Ở điểm này, ta thấy sự ảnh hưởng của triết học Aristotle lên Mill. Aristotle nói rằng, bên trong cái hạt có tiềm năng trở thành cái cây. Tiềm năng đó chỉ có thể trở thành hiện thực khi cái hạt được chăm bón dưỡng chất. Tuy nhiên, khác với Aristotle, Mill không tin vào tính tất định của tiềm năng ấy. Ông cho rằng con người có vô vàn những tiềm năng đa dạng không thể hình dung trước được.

[12] Bùi Văn Nam Sơn, ‘Đọc lại “BÀN VỀ TỰ DO” của John Stuart Mill’, website: tinhthankhaiminh.blogspot.com

[13] Vì Mill là triết gia công lợi nên ông sử dụng tính lợi ích trong nguyên tắc của mình. Các nhà triết học quyền tự nhiên sau này sửa chữ lợi ích của Mill thành quyền tự nhiên.

[14] Có lẽ tư tưởng của Mill đã phần nào hình thành các án lệ liên quan đến sự xung đột giữa tự do ngôn luận và tự do tôn giáo. Tòa án có xu hướng bảo vệ chỉ các ngôn luận có đóng góp vào công luận chung.

[15] Isaiah Berlin, “Tất định luận và tự do lựa chọn”, Nxb Tri thức, Trang 215

[16] Isaiah Berlin, “Tất định luận và tự do lựa chọn”, Nxb Tri thức, Trang 216

[17] Isaiah Berlin, “Tất định luận và tự do lựa chọn”, Nxb Tri thức, Trang 270

[18] John Stuart Mill, “Bàn về tự do”, Nxb Tri Thức, Trang 44.

 

Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2020

Anh hề Arlequin (Trích: Biên bản bí mật)

1

Khi Romeo đang ưa thích một nàng Roza xinh đẹp (nào đấy), chàng nhạy cảm hơn một chút nhưng vẫn xử sự và nói năng như tất cả mọi người. Nhưng chàng bắt đầu mê sảng từ giây phút quen Julia. Chàng nói những câu kì lạ, sử dụng những ẩn ý kì lạ. Đôi khi quái gở, nhiều lúc vớ vẩn, phần lớn vô nghĩa. Chàng yêu càng say đắm bao nhiêu, hành vi và lời nói của chàng càng điên rồ bấy nhiêu. Ngôn ngữ của chàng, đột nhiên so với những kẻ khác cao hơn hẳn một cung bậc.

Hamlet lúc chưa gặp hồn ma của cha mình, chàng hơi âu sầu nhưng xử sự và nói năng hệt như những kẻ khác. Từ giây phút nhìn thấy cha, chàng bắt đầu mê sảng. Ô! Thật đáng ngạc nhiên! Cũng từ giây phút ấy, hóa ra không phải chàng, mà là mọi kẻ khác mê sảng, chàng mới là người ăn nói tỉnh táo.

Những người khác tiếp tục sử dụng không mảy may ngờ vực ngôn ngữ của họ, còn Romeo và Hamlet nghe những lời vô nghĩa này một cách khó chịu. Nhưng chúng ta, những kẻ nhìn màn kịch từ vị trí có một không hai này, không gì làm chúng ta nhầm lẫn được nữa.

Chúng ta biết rất rõ, Romeo và Hamlet nói năng tỉnh táo, còn những kẻ khác mê sảng hoặc ngộ nhận. Chúng ta biết, Romeo và Hamlet chơi chữ, sử dụng những từ ngữ kì lạ với những ý nghĩa kì lạ, vì, như Shakespeare viết, thế gian như thể bị lật nhào, còn ngôn ngữ của họ như thể nhảy cao hơn hẳn một cung bậc.

Trong khi những kẻ khác tiếp tục nói năng lệch lạc, ngộ nhận một cách không mảy may ngờ vực, thì Romeo và Hamlet bắt đầu sử dụng những ngôn từ thể hiện chính xác tình huống.

Tình huống nào vậy? Câu hỏi ngu xuẩn. Tình huống đang có chứ tình huống nào? Toàn bộ những kẻ khác tuyệt đối không hiểu gì cả. Có việc gì vậy? Câu hỏi ngu xuẩn. Việc đang xảy ra chứ còn việc gì.

Những kẻ khác tưởng đang nói về một mức độ nguy hiểm, thậm chí gây tác hại, thậm chí bị cấm của một sự tồn tại nào đó. Nhưng chúng ta, những kẻ nhìn màn kịch từ vị trí có một không hai này, không gì làm chúng ta nhầm lẫn được nữa.

Ta thừa biết, chẳng có mức độ nào ở đây. Những kẻ khác so với Romeo và Hamlet đang sống trong trạng thái phi-tồn tại. Trong giây phút Romeo quen Julia, trong giây phút Hamlet gặp hồn của cha mình, trong giây phút thế gian bỗng lật nhào, những kẻ không có thật bỗng biến thành có thật. Và khi đã là cái có thật, họ bắt đầu nói năng và sử dụng những ngôn từ thể hiện chính xác tình huống, đúng như những kẻ hiểu chính xác tình huống

Không có bất kì một mức độ đáng sợ, thậm chí gây tai hại, thậm chí nguy hiểm nào xảy ra. Không có sự nói năng mê sảng nào ở đây. Không có tình huống càng điên bao nhiêu càng mê sảng bấy nhiêu. Đấy chỉ là người ta tưởng thế. Chúng ta, những kẻ nhìn màn kịch từ vị trí có một không hai này, chúng ta biết, những kẻ khác không đáng bàn, trong vở kịch chỉ mỗi Romeo và Hamlet là những kẻ có thật.

2

Chưa bao giờ có đủ cơ hội thuận lợi hơn để tiến hành sự phân biệt cần thiết từ lâu này. Nghệ thuật, thứ mang tính chất hình học và trí tuệ, gần như mang phong thái của Pythagoras và cổ điển, nhưng thật sự nó tồn tại từ một cảm hứng trật tự nào đó, nên bên trong nó, tỉ lệ, sự chắc chắn và một tri thức được phản ánh.

Bởi vậy nghệ thuật này có thể gọi là Orfika, không chỉ vì Orpheus tìm ra, mà vì trong Hi Lạp cổ điển châu Âu Orpheus là đỉnh cao nhất. Nghệ thuật Ai Cập cũng là Orfika, từ nhiều góc độ: nghệ thuật Tây Tạng, Trung Quốc, Toitek, Gotik, nghệ thuật Phục hưng cũng vậy.

Nghệ thuật Orfika là nghệ thuật kiềm chế, mà ví dụ lớn nhất là Yantra Đông phương. Nó sắp xếp các sức mạnh mà nó tiếp cận. Bởi vậy mục đích lớn của mọi Orfika là sự hài hòa. Và bởi vậy cổ điển Hi Lạp mang tính chất thông thái, hình học, có tỉ lệ, và bởi vậy nó bắt nguồn từ cảm hứng của trật tự, và ở cấp độ cao nhất.

Trong tất cả các loại hình nghệ thuật, bên cạnh những khoảnh khắc có sự sắp xếp, quy củ và kiềm chế còn có khoảnh khắc gợi tưởng. Đây là thứ nghệ thuật phép thuật (magia) kì bí, thứ đôi khi bùng phát, và ở châu Âu nó gần như đã hạ gục Orfika.

Nghệ thuật phép thuật không kiềm chế mà gợi tưởng. Không tri thức mà tưởng tượng. Không tồn tại trong sự hài hòa mà trong cảm hứng ngây ngất. Không tìm kiếm sự chắc chắn mà tìm đến chủ nghĩa kích động (enthuziazmus). Nó giải phóng những sức mạnh mà nó tiếp cận.

Tác phẩm điển hình là Divina Commedia - Thần khúc (Alighieri Dante, 1265-1321), một trong những đỉnh cao của nghệ thuật Orfikus. Nó sắp xếp và kiềm chế toàn bộ sức mạnh từ đáy địa ngục đến thiên đường cao nhất.

Tác phẩm phép thuật điển hình là Những con quỷ của Dostoiepxki. Đây là tác phẩm, trong đó nhân vật Stavrogi đang nói chuyện bình thản với vị tướng, bỗng nhiên không lí do và hoàn cảnh đặc biệt nào, đứng lên, bước lại gần và cắn vào tai ông ta.

“Âm nhạc nói chung là một sự khủng khiếp - Tolstoi viết - nó là cái gì mới được cơ chứ? Tôi không biết. Âm nhạc là cái gì? Nó làm gì? Người ta nói âm nhạc tác động khủng khiếp, nhưng tuyệt đối không bằng cách nâng cao linh hồn. Không tác động bằng cách nâng cao hoặc hạ thấp linh hồn, mà bằng cách kích động linh hồn. Dưới tác động của âm nhạc, có vẻ như tôi hiểu cái tôi không hiểu, tôi có khả năng làm một cái gì đó tôi không có khả năng.”

Những lời nói trên đây của Tolstoi đặc trưng cho âm nhạc phép thuật của Beethoven. Âm nhạc tác động linh hồn bằng cách kích động. Không nâng linh hồn lên, hoặc hạ thấp xuống mà kích động. Âm nhạc Beethoven là âm nhạc gợi tưởng, là âm nhạc phép thuật giống như tác phẩm của Dostoiepxki là tác phẩm phép thuật.

Đây là thứ nghệ thuật kích động đối ngược với nghệ thuật kiềm chế linh hồn, là thứ nghệ thuật phép thuật đối nghịch với nghệ thuật Orfika, khi tôi có khả năng làm một cái gì đó mà tôi không có khả năng, khi tôi hiểu một cái gì đó mà tôi không hiểu. Đấy là phép thuật. Đấy là sự ngây ngất, là trí tưởng tượng và là chủ nghĩa kích động.

Nghệ thuật Orfika đặt mọi vật vào vị trí của nó và tạo cân bằng, duy trì kỉ luật và tác động bằng cách nâng linh hồn lên, giống như bản anh hùng ca của Pindar (Nhà thơ Hi Lạp cổ 522 trước Công nguyên, hoặc Divina Commedia -Thần khúc, hoặc nhạc của Bach, hoặc đền thờ Panthenon (Hi Lạp cổ) hoặc tranh của Raffael.

Nghệ thuật phép thuật là thứ nghệ thuật gợi tưởng đến bề sâu và phá vỡ sự cân bằng, tác động đến linh hồn một cách kích động, như vở Faust, hoặc những bản sonett của Beethoven, tranh của Van Gogh, tượng của Michelangelo.

Biểu tượng của nghệ thuật Orfika là pha lê, còn của nghệ thuật phép thuật là dòng nước xoáy.

Orfika là câu nói sau đây của Thánh Kinh: "Ban đầu Thượng Đế tạo dựng lên trời và đất".

Phép thuật là câu nói sau đây của Tolstoi: "Đời sống chỉ bắt đầu khi con người không biết cái gì sẽ tới."

Khi Romeo làm quen với Julia, và khi Hamlet gặp hồn của vua cha, cùng lúc và đột nhiên, trong một khoảnh khắc họ từ trạng thái kiềm chế bước sang trạng thái kích động. Những mối quan hệ trong sự tồn tại của họ biến đổi trong giây lát. Không sống trong tinh thể pha lê nữa mà trong dòng nước xoáy. Thế giới bị lật nhào, Shakespeare nói.

Đấy là chủ nghĩa kích động (enthuziazmus), đấy là trí tưởng tượng và niềm cảm hứng. Không bao giờ còn trật tự nữa. Tôi đã hiểu một điều gì tôi không hiểu. Đời sống chỉ bắt đầu nếu tôi không biết cái gì sẽ xảy ra.

Romeo và Hamlet nhận ra một điều gì đó có tính chất quyết định. Những người khác cân nhắc và tính toán một cách sai lầm, họ thu hẹp, tàn úa và phủ nhận. Cái gì? Câu hỏi ngu ngốc. Cái đang có. Hình như Romeo và Hamlet bị điên thật sự. Không đúng. Đời sống chỉ bắt đầu khi con người không biết cái gì sẽ tới.

Sự tồn tại không có tác dụng vỗ về. Tuyệt đối không nâng lên mà kích động. Con người đột nhiên tin rằng nó có một khả năng mà nó không có. Không bao giờ còn trật tự bình an, và kỉ luật, sự hài hòa, quyền lực kiềm chế nữa. Trái lại có một sự mê sảng, say đắm, một sự gợi tưởng, và chủ nghĩa kích động, và phép thuật, và cảm hứng ngây ngất.

3

Bây giờ ta nói đến những nhân vật lớn của sự sống người. Một nửa nguồn gốc của những nhân vật này, cứ cho là người mẹ, là niềm cảm hứng của dòng nước xoáy. Hay ở nhân vật của Shakespeare, cứ cho đấy là người cha.

Một từ ngữ cơ bản: vaulting ambition. Có thể dịch là sự hãnh tiến, là bản năng quyền lực, là kẻ nuôi mộng lớn. Các nhân vật điên rồ nhất của lịch sử là như vậy: Richard III, Macbeth, Antonius, Caesar và Coriolanus.

Bản năng quyền lực có một logic đặc thù. "Befehlen ist Seligkeit" (Ra lệnh là một hạnh phúc) như Goethe nói. Một sự ngây ngất không diễn tả nổi, khi con người ra lệnh. Trở thành quyền lực. Có thể biến thành kẻ say cuồng khi được ra lệnh.

Richard III chắc chắn biết nhiều về điều này. Macbeth còn biết nhiều hơn. Nếu kẻ nào đứng chắn đường họ, họ giết. Nhưng nếu ai biết về vụ giết người này, cần phải giết nốt kẻ ấy. Máu, máu. Vẫn luôn luôn có kẻ đứng chắn đường và vẫn luôn luôn có kẻ biết một điều gì đó, vẫn luôn luôn cần sợ một kẻ nào đó: cần phải giết tất cả. Đấy là vaulting ambition.

Giờ đây có quá nhiều kẻ đứng chắn đường và cần phải sợ quá nhiều kẻ, bởi vậy không thể làm gì khác ngoài việc giết, giết liên tục. Đấy là bản năng của quyền lực. Giết Duncan, nhưng vì thế, cần phải giết cả Banquot, cần phải giết con người này bởi vậy cần phải giết toàn bộ gia đình Macduff. Quyền lực rốt cuộc khi nào trở nên vững chắc? Đấy là vaulting ambition.

Trong màn đầu tiên của vở kịch Timon ở Athen của Shakespeare, Timon sống trong sự điên cuồng của quyền lực, y giàu có, đầy thế lực, cai trị và ra lệnh. Nhưng khi đánh mất gia tài, ngay phút ấy y bị tất cả mọi người bỏ rơi. Đấy là nhân vật Timon ở Athen của Shakespeare, kẻ nhìn thấy không một tế bào nào của thế giới lại không thẩm thấu cơn khát quyền lực.

Đến đoạn giữa của vở kịch, khi Timon còn lại một mình, bị bỏ rơi, nghèo khổ, bị khinh bỉ, kẻ ăn mày trong một khu rừng, y không là gì khác ngoài hình ảnh một sự phê phán thế giới điên cuồng của quyền lực. "Tất cả xiên lệch, không có đường thẳng trong thế gian xấu bẩn của chúng ta, chỉ có sự bất lương là thẳng". Y sống trong hang đá, ăn rễ cây và nhảy múa làm trò chống lại vaulting ambition.

Đây là sự phê phán của Macbeth và Richard III và Caesar.

Timon là: Madman so long, now a fool (Điên quá lâu, bây giờ là kẻ ngốc).

Timon là cái quá độ duy nhất có thể giữa tham vọng và một cái gì vượt qua tham vọng. Cái gì là cái vượt qua tham vọng? Điên quá lâu, bây giờ là kẻ ngốc. Anh hề-Arlequin.

Là con người duy nhất chiến thắng sự điên cuồng của quyền lực. Là kẻ duy nhất cầu nguyện cho người sống trên thế gian bằng những lời lẽ khác thường: "the plague of company light upon you" (bệnh lây lan dân chúng hãy rơi vào mày).

"Tao chỉ có một niềm kiêu hãnh duy nhất: tao không phải là mày. Nếu tao trong sạch, tao nhổ vào mày."

Đây đang nói về các nhân vật lớn của nhân loại. Một nửa nguồn gốc của loại nhân vật này là sự ngây ngất của dòng nước xoáy. Một nửa nguồn gốc của loại nhân vật này là sự chiến thắng, sự hãm phanh nỗi điên cuồng của quyền lực "Điên quá lâu, bây giờ là kẻ ngốc."

4

Bản năng quyền lực tưởng rằng, trên đỉnh thế gian là ngai vàng của Đấng Toàn Năng và nó muốn ngồi vào đó. Đồ ngu xuẩn. Tại sao anh hề lại cười nhăn nhở? Bởi anh hề biết rằng Thượng Đế không ngồi trên ngai vàng. Ngai vàng để đó.

Truyền thống cho rằng Thượng Đế tạo ra ngai vàng trong ngày đầu tiên tạo dựng thế gian tại Araboth, trên thiên đường cao nhất. Nhưng Ngài không bao giờ ngồi trong đó. Ngài cho phép Sabbath - Ngày Lễ vào ngày thứ Bảy - được ngồi trên ngai vàng.

Cả Trái Đất chỉ anh hề biết điều này.

Kẻ đầy tham vọng ngu xuẩn tưởng Thượng Đế mình khoác áo choàng tay cầm thiên trượng ngồi trên ngai vàng, và ra lệnh, với niềm tin: "Ra lệnh là hạnh phúc". Chỉ những kẻ đầy tham vọng mới tin rằng ra lệnh là cảm hứng ngất ngây lớn nhất trên trái đất.

Anh hề cười lăn lộn và không giấu nổi sự giễu cợt. Nếu được dâng ngai vàng anh hề sẽ đặt lên đầu mình cái mũ gắn chuông, sẽ cười hô hô hô, sẽ đứng lên cái tay vịn của ngai vàng và chếch cái mũi dài ra khoe.

Thật khoái trá khi nhìn những kẻ chạy xuôi ngược lưỡi thè lè tranh giành và giẫm đạp lên nhau, những kẻ phản bội và sát thủ, những kẻ vàng vọt đến tận xương vì ghen tị và sôi lên vì trả thù, thật là cảnh hài hước địa ngục cái gọi là lịch sử, với sự cuồng dại mất trí vì ngai vàng, hay đúng hơn vì quyền lực.

Quyền lực thế gian không phải là Thượng Đế mà là thần tượng. Ngai vàng! Quyền lực! Có thể nếu một lần cần phải tự giải trí, Thượng Đế sẽ cho phép một kẻ nào đó ngồi lên ngai vàng. Có thể ngài trao vai trò này cho một kẻ Chống Thiên Chúa. Sẽ cực kì hài hước, ta sẽ tha hồ cười đến chừng nào hết chịu nổi.

Anh hề cười nhăn nhở. Như thể cũng muốn ngồi lên ngai vàng, như hết thảy, và tin rằng có thể biến thành kẻ độc tài và ra lệnh. Ra lệnh là hạnh phúc.

Anh hề đứng ngoài tham vọng. Chàng ta học được bài học từ Timon rằng trên thế gian này tất cả đều cong, chỉ sự bất lương là thẳng. Nhưng anh hề không nhún nhảy. Anh hề đứng ngoài tham vọng. Đứng ngoài lịch sử. Một con người không thay thế được. Kẻ không có đôi.

Vua Lear già hiểu điều đó, và ngài không thể thiếu chàng ta một giây. Khi anh hề không có đó, vua kêu lên: Thằng điên của ta đâu? Chàng hề của ta đâu? Ê! Như thể cả thế giới ngủ yên! Vua Lear già biết rằng không có sự yên ổn nào lớn hơn ở bên cạnh một kẻ chẳng những không muốn ngồi lên ngai vàng, mà còn cười vào mũi những kẻ muốn đẩy hắn lên ngôi.

"Anh hề đây, châu báu đây" - Goethe đã nói.

Đây là châu báu giấu kĩ, là tiếng cười dành cho thần tượng và những kẻ sùng bái thần tượng. Đây là giọng cười lớn và khoái trá trên cái không là gì của bản năng quyền lực. Đây là anh hề. "Chẳng há đây là một anh chàng không hiếm hoi, thưa ngài?" (He is as good as anything and yet a fool).

Đây là anh chàng hiếm hoi nhất của thế gian và là một trong những nhân vật lớn của nhân loại. Một kẻ vô cùng đặc biệt, như những kẻ điên khùng khác, như một anh hề - Arlequin.

5

Thân sinh của Arlequin - anh hề, mẹ chàng, là cảm hứng của dòng nước xoáy. Đời sống chỉ bắt đầu, khi con người không biết, cái gì sẽ đến. Thân sinh kia của Arlequin - anh hề, cha chàng, là giọng cười dành cho bản năng quyền lực.

Điên đã lâu, giờ đây thành đồ ngốc. Arlequin nói năng giống Romeo khi quen Julia, như Hamlet sau khi đã gặp hồn ma của vua cha. Các mối quan hệ trong sự tồn tại của họ thay đổi. Họ tạo ra những lối chơi chữ, sử dụng những từ ngữ quái gở, và còn quái gở hơn khi sử dụng cái lưỡi, khi khoe cái mũi dài và lắc chuông đeo trên đỉnh mũ, vẫn giống hệt những người khác, nhưng thêm vào tính chất điên.

"Thật tai hại, khi một thằng điên không biết nói lấy một câu thông minh, khi bọn thông minh điên rồ như thế."

Thế là đủ. Giờ đây ta cần đi thẳng vào bản chất của vấn đề. Arlequin là một nhân vật chính của sự sống con người và là một trong những anh chàng hiếm hoi nhất của thế gian. Tại sao? Tại Arlequin là nghịch lí? Không. Hoàn toàn không như vậy.

Logic ngôn ngữ của Arlequin là nghịch lí. Tại sao? Tại vì nó ngược đời? Giải thích như vậy quá ít. Nhưng: đúng là Arlequin - anh hề nhận thức được rằng logic của sự tồn tại là nghịch lí.

Trước tiên chàng ta từ bỏ tình huống đấu tranh. Không tham dự cuộc tranh đấu vì quyền lực. Giọng cười của chàng ta cũng là dấu hiệu của sự bất hợp tác này, như cái mũ đính chuông leng keng và những câu tiếu lâm cùng những trò hề.

Arlequin không phải kẻ đầy tham vọng. Chàng ta không buộc mình vào của cải, chức tước, lí thuyết, vào ăn ngon mặc đẹp cũng không, chả thiết bất kì một loại nghề nghiệp hoặc tri thức nào. Chàng ta không chinh phục bất cứ ai.

Arlequin - anh hề Tự do. Bởi vậy chàng ta là một trong những nhân vật chính của sự sống và vì thế hiếm hoi. Giọng cười của anh hề cũng là một dấu hiệu của tự do, giống như cách chơi chữ và trò nhào lộn cùng giọng cười ha ha-hô hô. Một kẻ từ bỏ tình huống tranh đấu, kẻ ngồi phệt giữa phiên chợ giời, và thiu thiu ngủ sau một trận quay cuồng nhảy nhót, kẻ đó tồn tại trong một hoàn cảnh nghịch lí.

Ở Tây Tạng người ta nói tinh thần giống như con lạc đà. Nếu định ghìm cương nó lại, nó sẽ chạy mười phương cùng một lúc, nhưng nếu để mặc nó, nó không buồn động đậy.

Logic của tinh thần là nghịch lí, bởi logic của sự tồn tại là nghịch lí.

Không ai dám sống một mình, số đông phần lớn vì thế cố tham gia, cố hòa hợp, nịnh bợ, giải thích, mặc cả, dối trá, kéo bè cánh, hùn hạp. Cộng đồng không được gây dựng do bản năng huynh đệ, mà cộng đồng được tạo dựng cho cá nhân, bởi nỗi sợ hãi phải sống một mình.

Không ai dám sống một mình. Người ta nghĩ ra đủ trò để giữa họ có một cái gì chung với nhau. Họ bám chặt vào nhau bằng cả mười đầu ngón tay, và cũng bằng cách ấy họ tách rời nhau rất nhanh. Há chẳng đặc biệt sao? Nếu một người nào đó bảo mình đang cô độc, trong một giây nỗi lo sợ đó biến mất vì trong một giây đó trong cộng đồng ai cũng muốn gặp hắn.

Tại sao? Tại logic của cộng đồng là nghịch lí như logic của sự đơn độc là nghịch lí, và logic của ngôn ngữ là nghịch lí bởi logic của sự tồn tại là nghịch lí.

Linh hồn cũng nghịch lí, bởi trong tận cùng sâu thẳm, nó không phải con thú mà là ngọn lửa trời trong sạch. Lịch sử cũng nghịch lí, bởi thuở khai thiên lập địa không phải từng có người rừng và loài vượn gorilla, mà từng có một thực thể mang trí tuệ phát triển cao.

Sự sống con người và các nguyên tử thực thể của nó là những sự trong sạch nguyên vẹn, giống như tư tưởng và lương tâm đầu tiên, và tình yêu thương.

Nếu mi bắt mi chống lại tính cách của chính mình, nó sẽ trả thù. Tính cách bị lăng mạ kiểu gì cũng trả thù.

Nhưng nếu cưỡng bức chống lại cái tinh thần của mi, nó không trả thù. Cái tinh thần bị lăng mạ im lặng, im lặng sâu sắc, không động đậy, không trả lời, không lên tiếng, không ra hiệu, và không trả thù. Đấy là sự trả thù của nó.

Tại sao? Tại logic của tinh thần là nghịch lí. Arlequin sống trong nghịch lí này. Ở bên ngoài lịch sử, hay nói đúng hơn ở giữa trọng tâm của lịch sử. Một cách khác thường, đồng nghĩa với ý nghĩa logic nghịch lí, trong một số phận cho phép tưởng tượng ra thế nào cũng được. Không có nghiệp, hay đúng hơn là thứ nghiệp mở đối với chàng ta. Prepared for all events - Chuẩn bị cho tất cả các tình huống có thể. Trong không điểm, hay là điểm sôi. Tại sao? Tại logic của sự sống là nghịch lí.

Con người giật mình nếu thấy một kẻ khỏe mạnh, vui vẻ, vô tư, một kẻ thích cười đùa, trêu chọc, ăn ngon, ngủ kĩ khiến họ không yên. Họ tưởng họ sẽ bị mất phần, nếu thấy một kẻ sung sướng. Họ tưởng nếu có một kẻ sống mạnh mẽ hơn họ sẽ bị thiệt phần sống. Bởi thế, cần phải ghen tị với nó, cần phải tiêu diệt nó. Bởi vì nó sống mất phần của hàng trăm kẻ khác nữa.

Thực ra, ngược lại thì đúng hơn. Nếu một kẻ nào đó sống tích cực hơn ta, những sức mạnh lớn hơn được giải phóng từ người ấy khiến cuộc sống của ta cũng mạnh lên, sâu sắc hơn và nâng cao hơn. Đời sống không thể hết. Không thể sống hết đời sống dành cả cho kẻ khác nữa. Đời sống, càng cho đi nhiều bao nhiêu, sự sung túc của nó đổ về càng tăng lên bấy nhiêu. Tôi sống càng tích cực bao nhiêu, tôi càng tạo nhiều khả năng bấy nhiêu cho người khác cũng sống tích cực như thế, để sự xuất hiện những con người mạnh mẽ, vô tư và khỏe khoắn cũng tăng lên bấy nhiêu.

Logic của đời sống là nghịch lí, bởi logic của ngôn ngữ, của sự cô đơn, của cộng đồng, của số phận và tinh thần là nghịch lí.

Cảm hứng của nhà thơ là trạng thái tất nhiên của đời sống? Đúng. Chủ nghĩa kích động là trạng thái tất nhiên của đời sống? Đúng. Tại sao? Bởi logic của sự sống là nghịch lí. Kẻ điên là kẻ thông thái? Kẻ thông thái điên? Anh hề là kẻ thông thái? Đúng. "Thật tai hại, khi một thằng điên không biết nói lấy một câu thông minh, khi bọn thông minh điên rồ như thế."

Không có thực thể nào thông minh hơn một anh hề. Trạng thái bình thường của đời sống là sự điên rồ. Tinh thể xoáy. Đúng ra mà nói, kẻ ăn nói đúng đắn nhất là kẻ mê sảng. Bởi vậy kẻ bị bản năng quyền lực quắp lấy, tiêu phí cuộc đời vào đó, sẽ đánh mất toàn bộ. Bởi vậy kẻ ngồi bệt bên đường quốc lộ và thiu thiu ngủ, kẻ đó thắng trọn vẹn.

Đời sống chỉ bắt đầu, nếu con người không biết cái gì sẽ tới. Đời sống không có tác động vỗ về. Bởi vậy Thượng Đế tạo ra ngai vàng nhưng không hề nghĩ đến việc ngự trên ngai vàng. Bởi vậy Arlequin - anh hề cười nhăn nhở trên cả thế gian hài hước này.

Sự sống thể hiện theo hướng kẻ nào định giữ nó lại thì nó bốc hơi trên tay kẻ đó, nếu đem gieo rắc khắp nơi, sự sống giàu có sẽ ngả vào lòng nó. Thế gian không biết điều này.

Và bởi thế Goethe nói: Die Welt ein einzig grosser Tor - Thế gian là thằng điên duy nhất, lớn nhất, Foolery does walk about the orb, like the sun, it shines everywhere - Sự điên rồ dạo chơi tự do trên thế gian, như mặt trời chiếu sáng khắp nơi.

Còn Arlequin - anh hề là kẻ tỉnh táo duy nhất.

6

Tất nhiên nơi nào xuất hiện một con người như vậy, nơi đó sẵn sàng cho một vụ bê bối. Nhân gian không chút nghi ngờ gì về bản chất nghịch lí của sự sống. Chỉ ở những khía cạnh nhạy cảm, người ta cảm thấy, có một cái gì đó không ổn trong toàn bộ.

Ví dụ người ta tưởng nhiều là thế mạnh, mà không biết rằng một cái gì đó càng nhiều, càng yếu. Thế gian tưởng điều được nhiều người nói, đấy là điều đúng. Ví dụ, vì tất cả mọi người điên rồ nên một kẻ tỉnh táo, đấy là một thằng điên, cần phải đánh cho nó một trận.

Cả thế gian không hề biết rằng, họ nằm trong trạng thái phi- tồn tại đối với Arlequin - anh hề, như các nhân vật khác của vở kịch so với Romeo và Hamlet Arlequin tồn tại, và những kẻ khác so với chàng hề, không hề tồn tại.

Khi chiến tranh Peloponnesos nổ ra ở Athen, thiên hạ ầm ầm chuẩn bị. Người ta hớt hải xuôi ngược, phô trương vũ khí, dồn thúc đám đông, từ biệt lẫn nhau, kêu gào xô đẩy. Arlequin - anh hề già có tên Diogenes thấy vậy bèn lăn một thùng đựng rượu trên một đường phố chính. Lăn về phía trước mười vòng, lăn ngược về phía sau mười vòng. Một cách cực kì hoan hỉ và mẫn cán.

Thằng hề kia làm cái gì vậy? - Người ta hỏi. Tôi nhìn thấy mọi người hớt hải chuẩn bị - Arlequin trả lời - tôi cũng không muốn bị tụt hậu.

Logic của sự tồn tại là nghịch lí. Khi Thượng Đế tạo ra con người, Ngài cũng tự thấy ngạc nhiên. Thượng Đế nói: Ta đã tạo dựng trong thể xác nó có cả tinh thần, bởi vậy trong tinh thần nó cũng có cả thể xác (Jacques Benigne Bossuet viết)

Bản thân sự tồn tại cùng lúc vừa là chủ thể vừa là đối tượng. Bởi vậy nó nghịch lí. Cái khoảnh khắc con người chủ thể biến bản thân mình trở thành đối tượng, khoảnh khắc đấy là ngôn ngữ. Bởi vậy nghịch lí là ngôn ngữ. Bởi vậy nghịch lí là cái tôi.

Tôi trong nhân danh tôi là tôi, nhưng không phải vì tôi, không thế chỗ và không thay thế được tôi. Bất kì ai cũng có thể làm bất cứ cái gì thay tôi, nhưng không ai tồn tại thay tôi và không thể nói họ là tôi khi nhân danh tôi. Nhưng nếu tôi cho rằng tôi chính là tôi, tôi sẽ đánh mất chính bản thân mình và sự tồn tại của tôi cũng mất. Nhưng nếu tôi cho đi chính bản thân tôi, tôi sẽ thắng cuộc và sự sống của tôi trở nên giàu có.

Không thể tưởng tượng bê bối nào nhức nhối hơn khi Arlequin bước vào cái thế giới đầy tham vọng, giữa buổi ăn mừng ánh hào quang giả dối của lũ sát thủ và quân phản bội. Toàn bộ những Richard III, những Macbeth, những Caesar và Antonius đều sững sờ.

Một kẻ dám đến đây, kẻ không hề có chút lí luận cũng như cái gọi là mục đích sống, kẻ không có ý định trở thành một thị dân mẫu mực, kẻ cười vào đạo đức và không hề tôn trọng đám giàu có lẫn đám có quyền lực. Thật là một kẻ kì quái!

Till Ulenspiegel, khi từ trên núi xuống, khóc, bởi nghĩ rằng, cần phải đi lên, và khi đã đi lên, cười, bởi nghĩ rằng sẽ lại phải đi xuống. Có thể làm gì với một kẻ điên-một anh hề như vậy?

Pie Đại đế bước đến gần Diogenes và bảo: Hãy cầu xin một điều gì đi, ta sẽ cho. Arlequin - anh hề già trả lời: Nhà ngươi hãy đứng sang một bên, đừng che mất bóng nắng.

Xua đuổi hề? Chàng ta cười. Không cho hề ăn? Chàng ta cười. Chế nhạo hề? Chàng ta cười. Đánh cho hề một trận? Chàng ta cười nhiều hơn. Khóa trái hề lại? Là lúc chàng ta cười khoái trá nhất.

Cái gì vậy, tại sao lắm kẻ sợ ta đến thế? Cả thành phố, cả một quốc gia sợ. Các vị vua, những cố vấn rậm râu, các tướng lĩnh, cảnh sát và lũ giàu có, tất cả đều sợ anh hề. Các bà mẹ giấu vội vã các cô con gái. Người ta hạ lệnh cho lũ con trai trốn xuống nhà kho. Các nhà bác học bực bội, các vị linh mục quay lưng. Thật là bê bối. Tại sao vậy?


Thứ Ba, 8 tháng 9, 2020

Tâm lý học của việc ngắt hoa (trích Sách - Đảo Nguyệt Quế)

"Rứt một xiềng xích sắt dễ hơn rứt một vòng hoa" - 𝑨𝒃𝒃𝒆́ 𝑪𝒐𝒏𝒔𝒕𝒂𝒏𝒕.

Nếu cuối đời đến với Thiên Thần của cái Chết, tôi nghĩ rằng tôi sẽ không nổi loạn mà lẳng lặng đi theo nàng. Mi có quên gì không? Tôi trả lời: có lẽ không. Nhưng nếu nàng hỏi: mi có tiếc thứ gì để lại đây? Tôi sẽ trả lời: những bông hoa.

Tôi sẵn sàng và dễ dàng từ bỏ mọi thứ có trên thế gian, nhưng hỡi ôi, hoa, những bông hoa!

Thiên Thần nói: mi sẽ thấy thế giới của nhận thức còn giàu hơn thế giới của hình ảnh. Ở đó mi sẽ thấy. Điều này giống như khi mi rơi vào thiền định sâu. Đứt đoạn khỏi trái đất sẽ không có trải nghiệm nào của mi ngoài trạng thái lâng lâng phi vật chất; mi sẽ lơ lửng một cách hạnh phúc và giải thoát trong vô tận.

Trong những khoảnh khắc vĩ đại của tình yêu, khi bức tường giữa bên ngoài và bên trong sụp đổ, mi sẽ không bao giờ biết đâu là ngoài và đâu là trong, thân xác thành linh hồn và linh hồn thành thân xác.

Trong những khoảnh khắc vĩ đại của tôn giáo, khi bức tường giữa ở đây và bên kia sụp đổ, mi sẽ không bao giờ biết đâu là đây và đâu là bên kia; mi sẽ sống trong trạng thái ý thức riêng biệt về bản thân chấm dứt, mi sẽ trải qua những mức độ tinh thần hướng về Thượng Đế, và sau cùng mi đạt tới Thần, là lúc mi tới đích.

Tôi nói: Hỡi Thiên Thần Thiêng liêng! Trong đời sống của mình ta đã tham dự vào ân sủng biết tự nguyện cam lòng theo những quy luật của sự sống. Ta cứu vớt mình bằng sự sùng kính, không cần cưỡng ép hoặc thúc giục.

Giờ đây ta cũng ra đi vì cần, bởi ta mừng đã biết cam lòng, và bởi ta biết, thế giới mà ta sắp bước vào cao hơn thế gian này. Không có gí để đau đớn. Trong tim ta an bình ngự trị. Nhưng những bông hoa, ôi những bông hoa! 

Khi vẫn còn là trẻ con, tôi nhớ một chân đồi, nơi có thể bước vào một thung lũng lạnh, tôi ngồi trên bức tường cạnh một ngôi nhà đổ nát, trước mắt là những bông cúc tím dại mọc trong bóng râm. Cùng lũ bạn thơ ấu xưa, chúng tôi từng bảo nhau cúc tím dại là lính Hungary, còn hoa bồ công anh là quân địch. 

Chúng tôi vặt trụi hoa bồ công anh ở những nơi đến, nhưng không bao giờ làm gì với hoa cúc tím dại. Giờ đây, khi ngồi trên bức tường này tôi nghĩ, biết bao lính vệ quốc, cả một tiểu đoàn, đóng trại hoặc chuẩn bị tấn công, đã bỏ qua những trận đánh với hoa bồ công anh. Tôi mừng cho họ và mong họ chiến thắng.

Rồi lúc mười tám tuổi thì phải, có một sự kiện đặc biệt làm tôi nhớ đến. Tại sao con người lại ngắt hoa và lấy hoa để trang trí cho họ? Sự bắt buộc bí ẩn nào xảy ra khi vào tháng Ba chúng ta đi dọc suối để ngắt hoa tuyết, còn tháng Năm vào rừng hái hoa chuông, và tháng Sáu đi hái những bông hoa thuốc phiện dại và hoa lúa mì giữa những luống đất cày? 

Tại sao lũ con gái vui sướng khi được tặng hoa? Tại sao có những bình hoa trong phòng, cắm đầy mai trắng mùa xuân và cúc vàng mùa thu? Tôi chỉ nghĩ đến thế lúc ấy. Và tôi quyết định sẽ nghĩ về điều này, sẽ chỉ yên lòng nếu tìm ra bí ẩn của nó. Tôi sẽ viết về tâm lí học của việc ngắt hoa.

Tất nhiên lúc đó tôi chả biết mảy may gì về tâm lí học. Tôi chỉ hiểu, linh hồn đi ngắt hoa. Tại sao? Tận hôm nay tôi cũng không biết. Chắc có một cái gì họ hàng giữa chúng.

Một người nào đấy càng có vẻ linh hồn, càng là hoa. Đàn bà. Đặc biệt là bọn con gái. Thiếu nữ. Trẻ em. Đặc biệt là trẻ sơ sinh. Những cái tên con gái: Iboly (Hoa Tím), Rozsa (Hoa Hồng), và tên đàn ông nữa: Nárcisz (Tóc Tiên).

Từ bấy đến nay đã hai mươi lăm năm trôi qua, nếu nhớ lại ước nguyện thuở ngồi trên bức tường, tôi lại cảm thấy mình cần phải trả món nợ này

Việc đầu tiền cần nói đến là tên của hoa. Tên của hoa là những từ đẹp nhất. Trong tiếng Hungary, cũng như trong tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc Latin. Tôi tiêu khiển nhiều buổi chiều hoặc buổi tối, đặc biệt vào mùa đông, cạnh lò sưởi, vào việc kiếm tìm tên hoa trong các từ điển để ngây ngất thưởng thức. Nhiều lần tôi tìm cho chúng những hình ảnh minh họa hoặc cả một câu chuyện.

Tôi chỉ nói một ví dụ. Một lần vào mùa xuân, tôi tìm thấy ở hướng bắc, nơi có bóng râm và kín đáo một bông hoa trắng. Dù ngay từ thời học sinh tôi ưa thích các từ tên hoa, nhưng tôi không biết tên loài hoa này. 

Nó lớn lên giữa những cái lá của hoa chuông, lá của nó có lông tơ, giữa năm, sáu, thậm chí bảy cánh nhung mềm trắng là một nhị vàng. Hương của nó? Nói thế nào nhỉ? Hơi nồng, thoảng, như kiểu hương hoa huệ, nhưng ngọt và nhẹ hơn, tinh tế, tươi mát, như thể không vương tính vật chất. Tên Latin của nó là Anemona, tôi gọi nó là Anemona Trắng.

Tôi biết một nơi đầy loại hoa này. Giữa tháng Năm tôi đến nơi đó, lần thăm viếng này mang rất ít tính chất trần gian. Tôi cúi đầu xuống bụi hoa, có cảm giác năm mười tám tuổi mình đã gặp người con gái suốt đời mình mong gặp, nàng thiếu nữ, thơ ngây như con trẻ, tóc vàng, da trắng như cánh hoa Anemona, chuyện trò với tôi, từ đôi môi thoảng mùi hương dịu. Tình yêu, tôn giáo, cái đẹp, linh hồn hòa hợp, như sự hoàn thiện của một khát vọng không bao giờ thỏa mãn

Hương và tên hoa này ngay lập tức, cũng từ bấy đến nay làm tôi nhớ đến sông LÉTHE (ở thế giới bên kia), nhớ đến nước của dòng sông "Lú" theo truyền thuyết Hi Lạp cổ. Có một quan hệ gì đấy giữa cái tên, hương, màu trắng tinh khiết của hoa Anemona và sự lãng quên: niềm hạnh phúc, có một thức uống bằng sự bí ẩn lạnh giá của nó gột sạch những kỉ niệm của tôi, để tôi có thể lại bắt đầu sống một lần nữa, như thể sinh ra lần đầu. 

Mùa thu tôi đến nơi ấy lần nữa, cây hoa bọc trong một khối bông trắng đặc biệt, tôi bắt gặp những đôi mắt nhỏ li ti, như thể một đội quân nhỏ sinh ra từ cái phôi hoa. Cực kì mong manh, Tôi cứ bần thần mãi, sao cây hoa có thể quấn những đứa con của mình vào chiếc chăn bông trắng, nhẹ, ấm áp đến thế, để khi mùa đông đến, chúng chui vào đất và không bị lạnh.

Giá có ai hỏi tôi thích sống với ai, tôi muốn trả lời: với nàng con gái Anemona trắng. Nhìn vào nàng, tôi quên hết những gì xung quanh, như thể mặt nước sông Léthe từ đôi mắt, từ sự động chạm êm như nhung với nàng, cần phải bảo vệ nàng như bảo vệ một cánh hoa nhung mềm hắng muốt.

Jung gọi người đàn bà mà đàn ông từ khi sinh ra đã mang trong trái tim và thực chất chỉ yêu và vĩnh viễn yêu là Anima. Anima và Anemona. Hoa linh hồn. Hoa hạnh phúc. Bông hoa của trinh nữ vĩnh cửu.

Giờ đây khi tôi hỏi: tôi có thể dừng lại mà không ngắt hoa? Không. Trong điều này có gì đó tự thân. Tôi biết, không hay nếu con người giết súc vật và ăn. Không hay nếu chặt cây, dùng cây để xây dựng hoặc đun nấu. Không hay nếu tước quyền sống của các thực thể sống, chỉ để nhồi vào dạ dày hoặc thỏa mãn sự hưởng lạc. Chỉ trừ một điều duy nhất: ngắt hoa.

 

Không có gì dở nếu tôi ngắt hoa, mang về nhà, cắm vào bình và cứ nửa tiếng ngây ngất ngắm một lần, sao hoa đẹp đến thế. Hoàn toàn bình thường khi con người ngắt hoa, bện thành vòng hoa, cài vào khuy áo hoặc cắm lên mũ. Tại sao? Tôi không biết.

Trong cái hành động cực kì đơn giản là con người ngắt hoa, chứa đựng nhiều bí ẩn. Bọn trẻ con ngắt vô tư, bọn con gái ngắt một cách vui sướng điên rồ, những kẻ đi du lịch ngắt hàng bó lớn, từ các khu vườn người ta cắt hoa từng khóm, như thể hoàn toàn tất nhiên và cần phải như thế.

Thế gian cũng là một thực thể sống và ngắt hoa là một sự giết. Nhưng được phép. Chẳng ai ngăn cản đừng hái violet tím bên bìa rừng tháng Tư. Một huyền bí lạ kì khiến ta bất lực đứng và đưa mắt ngạc nhiên dõi theo.

Trong các cuốn sách tôi đọc lúc rảnh, bao giờ cũng có hoa. Buổi trưa tôi sẵn lòng ngắt hoa rozmaring, hoa sim, hoa muối dại tím, ngắt lá cây vả, cây repkeny. Tôi đem về nhà gần như tất cả những loại hoa gì bắt gặp giữa đường, và thích hái.

Trước kia tôi có nơi sưu tập hoa-khô, nhưng rồi tôi bỏ, đấy là công việc của các viện bảo tàng. Trong sổ tay ghi chép lúc nào tôi cũng mang theo vài nhánh oải hương (levendula) tím. Tôi hái mùa thu năm trước, thỉnh thoảng tôi lôi ra, vò nát và sặc vì hương của chúng.

Có một phương cách duy nhất bảo vệ sự ảnh hưởng của con người, một phương cách duy nhất khiến con người vẫn vô tội khi đã phạm tội. Phương cách duy nhất là vẫn như còn lại trong đời, dù đã chết. Đấy là huyền bí của tôn giáo, tình yêu, nghệ thuật. Và của việc ngắt hoa.

Tất cả đàn ông đều trải qua cảm giác người con gái mà họ yêu, khi còn là cô dâu mới dễ thương, nồng ấm làm sao, sau hôn nhân họ đành phải chịu đựng những khiếm khuyết của nàng như thích chỉ huy, đồng bóng, tầm thường. Và nếu không phải trải qua, họ chắc chắn vẫn sẽ biết, bởi vì kinh nghiệm này là một bến đỗ cần thiết không thể bỏ qua trong số phận đàn ông.

Biểu tượng duy nhất dành cho cô dâu: hoa. Bởi vậy cần "hái" cô đem về cùng hoa, và bởi vậy chú rể không thể đón dâu nếu thiếu hoa. Người đàn ông tưởng lấy hoa về làm vợ. Nhưng không. Quan niệm đàn bà có họ hàng với hoa cần bỏ đi, vì sai. Đặc biệt, khi nguồn gốc và cội rễ những đặc tính trong đàn bà như giả dối, hư, hay chọc tức, làm người khác vỡ mộng và chán nản, không phải từ sự ích kỉ.

Tôi cho rằng thế này: nếu bằng những đặc tính trên đàn bà bảo tồn được sự sống riêng và bản thân mình cùng với chúng, họ vẫn có quyền được bảo vệ, kể cả lúc đối đầu với đàn ông, khi đó họ vẫn có thể là hoa. Bởi vì tôi không tự ru ngủ mình, số phận của cây cỏ không hề lí tưởng, mà cực kì ích kỉ, bởi cỏ cây cũng cần trải qua nhiều khó khăn khổ sở lạ lùng.

Cứ nghĩ đến công việc của những cái rễ là đủ: không phải trò đùa khi nuôi dưỡng cây. Đấy không phải cuộc tranh đấu lý tưởng vì quyền sống vì chỗ, vì ánh sáng. Nhưng không sao: sự duy trì mầm sống riêng đã chứng minh đến cây cỏ cũng cần phải tỉnh táo và ích kỷ ra sao.

Ở đàn bà, những đặc tính làm người khác căng thẳng, mất hứng, suy sụp và sau cùng cướp đi cái đẹp lớn thứ hai của cuộc đời không nảy sinh từ bản năng duy trì sự sống tự nhiên của đàn bà. Đây là sự khác biệt lớn nhất giữa đàn bà và hoa. Bởi vậy đàn bà không phải là hoa. Cái xấu từ sự ích kỉ trắng trợn luôn luôn có thể tha thứ và tha thứ được. Bởi trong điều ấy chúng ta bình đẳng như nhau, và chẳng làm gì nổi nhau.

Còn cái xấu trong đàn bà thì độc ác, hủy diệt và ma quỷ, một thứ chính thế có thể tầm thường và đê tiện, như một người đàn bà có thể đẹp và quyến rũ, một thứ độc ác vô lí, vô nghĩa, không liên quan gì đến một số phận tự nhiên. Đây không phải thứ nhu cầu cần thiết trong cái Tôi, mà là sự phục vụ của những Quyền lực xấu nằm ngoài bản chất. Tôi không nói nó có thể khác, mà nói, nó là như thế.

Tôi chưa tìm ra kinh nghiệm nào chấn động hơn kinh nghiệm về đàn bà của tôi. Không chỉ một lần và đột nhiên nhận ra. Các Thần hộ mệnh của tôi tha cho tôi, bởi biết rằng tôi khó có khả năng chống đỡ. Bởi vì đàn bà đối với tôi, rất tự nhiên, và điều này tất cả đàn ông lập tức hiểu ngay, quan trọng hơn bản thân tôi rất nhiều. Từ từ, sau rất nhiều năm, mỗi lúc một quen dần, sau cùng khi tôi đã thấy rằng, tôi có thể chịu được đàn bà, lúc đó trong tôi đã đủ sức mạnh và lợi thế.

Bù đắp cho người đàn bà hiện thực, như người ta nói, trong linh hồn đàn ông phát triển một bóng dáng chân chính. Người ta gọi linh hồn mang chất đàn bà trong người đàn ông là Anima, là người đàn bà mà y đeo trong tim, có thể là một thực thể đã hình thành sau vô vàn đời sống trước đây của y, như ta nói, không hiện thực mà chân chính. Nhiều kinh nghiệm đã chứng minh cho nhiều người thấy, điều này đúng như vậy.

Đối với tôi điều này không nói lên gì mấy, bởi mọi khái niệm dựng lên từ kinh nghiệm đối với tôi đều xa lạ. Có thể, Anima phát triển, trái ngược với người đàn bà hiện thực, để cứu vớt người đàn ông khỏi sự sụp đổ hoàn toàn, và để y duy trì hình ảnh người đàn bà chân chính trong đời và trong sự tỉnh táo

Shelley cho rằng: nhiều người yêu một nàng Antigoné, bởi vậy ít đàn bà trần thế. Ý kiến của Rilke khác: theo chàng cần phải chinh phục người thiếu nữ-linh hồn bên trong, và nàng là nhiệm vụ chân chính của một đời đàn ông để đi chinh phục và sống cùng suốt đời.

Nhiều ý kiến, lắm dạy dỗ. Nhưng hai ý kiến thế là đủ.

Cái nổi lên ở đây tôi không cho là vấn đề. Cũng không có ý định giải quyết. Và thực chất ý đồ giải quyết trong những trường hợp tương tự đều không khiêm tốn cho lắm. Tôi chỉ muốn nói đến mối quan hệ giữa đàn bà và hoa.

Chắc mọi người còn nhớ đến một tấm ảnh, người ta mang hoa đến cho một người đàn bà trẻ, và cái tiếp theo: cô gái ôm ghì bó hoa vào ngực, phía trái tim, theo cái cách phù hợp với vô vàn điều kiện của sự quyến rũ và làm dấy lên một ảo ảnh hoàn hảo.

Nàng áp nửa gương mặt vào hít hương thơm, và mỉm cười. Hình ảnh này trong đời ít nhất người ta nhìn thấy đến hai trăm lần, trên ảnh chụp còn nhiều hơn nữa. Tôi chưa bao giờ thấy các cô gái làm khác, cũng như chưa bao giờ tôi nhìn thấy con mèo rửa mặt theo hai kiểu.

Tất cả mọi nơi đều là sự nhẹ dạ và quyến rũ trưng trong tủ kính, đúng nụ cười ấy, cái cách cúi sát mặt vào hoa ấy, đúng sự cảm động giả dối ấy, sự gắn bó với hoa. Tấm ảnh muốn trưng ra, đây là cô gái chân chính, cô gái trong linh hồn đàn ông, là bông hoa mà người đàn bà hiện thực chỉ là một hình dạng hư hoại của nó mà thôi.

Nếu nhìn thấy một người đàn bà đẹp, tôi luôn say mê nhìn tới nhìn lui, bởi tôi bơ vơ không được bảo vệ vĩnh viễn chống lại đàn bà đẹp, nhưng cho dù nàng đẹp lộng lẫy, quyến rũ đến đâu tôi vẫn nhìn thấy trong nàng ở đâu cũng có sự ghen tị, trả thù và thuốc độc.

Sắc đẹp không đánh lừa được tôi nữa. Nàng không phải hoa. Dù nàng rất muốn. Dù tôi rất mong mỏi. Dù nàng rất mong đợi. Nàng mỉm cười với tôi, nhưng tôi biết bí ẩn của nụ cười này là ressentiment (oán giận). Tôi không muốn chết già trong ý nghĩ này. Còn khối thứ khác cần hơn.

Tôi không cùng quan điểm xấu như của Dante Gábriel Rossetti về đàn bà, gần như trong sự kính trọng tôn giáo khi nói: đàn bà cần phải tha hóa để cứu vớt sắc đẹp của họ. "Đôi khi em làm như thể em không phải là em, mà chỉ là ý nghĩa của một cái gì có.”

Tôi cũng không tin đàn bà đúng y như hoa, là áo quần sặc sỡ của nữ thần Kali, Magna Mater, là phép thuật nhiều màu của Maja. Đàn bà biết rất rõ, vô ích lụa là, nhung gấm, đồ trang sức, phụ tùng tóc, phấn màu, son, chì đen, nụ cười, vô ích toàn bộ phụ tùng hóa trang gây điên rồ, vô ích và vô ích

Cần tha thứ sự phản bội của đàn bà (ngoài ra cần tha thứ toàn bộ những gì xấu họ làm để chống lại chúng ta), bởi vì dù họ phản bội đàn ông, nhưng số phận của kẻ bị làm hư hỏng lại chính là số phận riêng của họ. Đàn ông thoát. Đàn bà thất bại trong sự hư hỏng đó, xấu đi, già đi trong đó. Đàn bà thất bại chính trong cái mà vì thế họ phản bội: trong sắc đẹp của họ.

Như một quy tắc có thể nói: Nếu một người nói dối người khác, gây tác hại, lừa người khác, làm tổn thọ kẻ khác, có thể đã cướp châu báu vàng bạc của đời người ấy. Chưa chắc. Nhưng có thể coi như thế. Điều chắc chắn là đàn bà nói dối bản thân họ bằng sự nói dối, làm tổn thọ mình bằng sự tổn thọ, lừa bản thân mình bằng sự lừa gạt. Chắc chắn như thế, không có ngoại lệ. Sự phản bội người khác đập lại ngay chính bản thân mình, có thể người khác không tin nhưng tôi tin. Kẻ nào rút gươm với người khác, chưa chắc đã đâm được, nhưng chắc chắn đánh mất bản thân mình vì cây gươm.

Tôi cần nói thêm: hoa có quan hệ với người đã chết. Bởi vậy nghĩa địa cần trở thành một khu vườn. Mọi bông hoa đều nằm trong quan hệ với cái chết, nhất là những bông hoa đã ngắt, bó hoa hoặc vòng hoa. Thật đặc thù, đúng không? Cô dâu và người chết nhận bó hoa. Quả thật ai chết, khi tiến hành đám cưới và cái chết giống như đêm tân hôn là thế nào?

Schuler, kẻ chắc chắn đã nghĩ nhiều về điều này (nhưng vĩnh viễn thiệt thòi là chàng viết quá ít), chàng nói: cỏ cây là tượng trưng của sự sống mở. Sự sống mở? Cái gì vậy? Một sự sống, tràn qua mọi giới hạn nhìn thấy được của đời sống. Trước tiên thẩm thấu qua một sự sống trước và sau sự chết, trước và sau sự ra đời, một sự sống mà giới hạn của đời sống không phải là giới hạn, nó mở, ra phía trước và phía sau, xuống dưới và lên trên. Điều này tất nhiên chỉ nói với những kẻ biết rằng cái chết không phải là sự tiêu hủy.

Cỏ cây sống trong hai thế gian và buộc hai thế gian lại: dưới trần thế, nơi có những kẻ đã chết, nơi có vật chất, và bên trên trần thế, nơi có những linh hồn và các tinh thần. Bởi vậy sự sống của cỏ cây mở, giống như cây cầu hoặc cái cổng, mở ra ngoài và vào trong, mở lên và mở xuống. Sự sống của nó mở hơn của con người, kẻ đã tách rời khỏi đất và bất lực về phía tối tăm dưới lòng đất.

Hoa giống như một bộ phận tinh thần của cỏ cây: một tượng trưng linh hồn. Phần tối tăm, rễ cây là của những người chết, những kẻ thân xác nằm bên dưới; hoa, phần sáng, là của những kẻ đã chết nhưng linh hồn nằm bên trên. Khi con người đặt hoa lên mộ, họ chỉ ra một nạn nhân. Và "con người trong mọi trường hợp, dâng hiến cho cái chỉ ra nạn nhân". Dâng hoa chỉ có nghĩa ngần này, trở thành nạn nhân của hoa. Của linh hồn.

Linh hồn tự dâng hiến mình cho linh hồn. Linh hồn ta bước vào sự tiếp xúc với linh hồn của những người đã chết. Đây là quan hệ họ hàng của cô dâu và kẻ đã chết. Cả hai đều là những tượng trưng của sự sống mở, thông qua họ, sự sống tự do đi lại từ đó tới đây, từ đây ra kia, như trên cầy cầu, những kẻ đang ở đây, nhưng thế giới bên kia cũng có, những kẻ mà sự sống của họ vượt qua giới hạn đời sống, và những kẻ vắt kiệt đời sống của mình từ nguồn siêu trần thế vĩnh cửu, vì đấy là các linh hồn.

Nơi đời sống mở rộng và vượt qua tính chất trần tục, nơi đó luôn luôn trở nên sáng sủa. Thiên nhiên trở nên sáng sủa như thế với mùa xuân, khi đã bước quá giới hạn mà vật chất dâng đầy cho nó. Người chết và cô dâu là như thế. Ngắt hoa trên cánh đồng là một thao tác của thế giới bên kia, là sự hồi hộp phi hiện thực và một cách nguy hiểm.

Linh hồn ngắt đứt với bản thân mình và đi về phía sự sống mở, nơi không có giới hạn. Tự bện bản thân mình vào vòng hoa. Còn vòng hoa, bó hoa là vương miện, là hào quang, là mặt trời, là sự ca ngợi, là sự quay trở lại của linh hồn với cánh đồng hạnh phúc thiên đường, nơi một lần nữa nó biến thành hoa.

Quay trở lại điều nói trên một lần nữa, giờ đây con người hiểu rõ hơn cô dâu, người mà chú rể phải mang hoa đến rước, tại sao lại có nghĩa là đêm tân hôn, là sự sống mở, nơi đàn ông biến thành đàn bà, và đàn bà thành đàn ông, và như vậy không dừng lại ở giới hạn mà thiên nhiên đã tạo sẵn, theo hình vòng tròn, như thế gian, như mặt trời, như vòng hoa, cái chết và sự sống cùng nhau, đàn ông và đàn bà, như trong tình yêu trao nhau sự sống là vĩnh cửu: sự ra đời, đời sống, cái chết và sự tái sinh.

Hoa là biểu tượng duy nhất chỉ ra ý nghĩa sự sống mở, và hoa chỉ có ý nghĩa ấy, khi người đàn bà nhận hoa, và giơ tay về phía kẻ dâng tặng, nói: chúng ta hãy mở rộng về phía nhau và hãy liên kết mọi sự sống vào với nhau. Thật đặc biệt đêm tân hôn của con người chỉ mở ra cái có ở dưới. Bởi vậy quái vật mới ngoi lên. Quái vật không là gì khác, ngoài cái rễ, chỉ là cái rễ không là gì khác, sống trong bóng tối, trên nó không có hoa.

Tôi đã sống ba năm trong một ngôi nhà vườn, nơi có khóm hoa nhài mọc dưới cửa sổ, và trong vườn nhà hàng xóm bên cạnh có cây ôliu. Cuối tháng Năm khi hoa nhài và hoa ôliu nở, hai tuần liền, qua cửa sổ để mở lúc nào cũng có hương nhài và hương ôliu.

Nhiều ngày liền tôi như ngất lịm đi theo đúng nghĩa đen bởi mùi hương, tôi ngất ngây cảm nhận sự thăng hoa của người âm, sức mạnh kinh hoàng của sự sống tràn ngập từ thế giới bên kia. Đặc biệt vào buổi bình minh, lúc yên tĩnh nhất, giữa một đến ba giờ sáng hương thơm mạnh đến mức tôi ngồi bên cửa sổ và thả mình theo những hình ảnh mà trạng thái say ngây ngất này tạo dệt.

Tôi đi dạo trong các công viên lớn, nửa tỉnh nửa mê, nơi có những bụi hoa hồng lớn, giữa những cái gai của chúng, những bông hồng Phục sinh nở rộ. Rồi tôi lang thang ra cánh đồng: bát ngát là hoa thuốc phiện dại đỏ sẫm, hoa cúc vàng và hoa lúa mì xanh. Rồi bước nhẹ nhàng ven bờ suối trong vắt, những cây hoa tóc tiên mọc đầy trên những khoảng trống. Trên đầu tôi những cành hoa mận, hoa anh đào, hoa táo rủ xuống.

Tôi bay trên cao, tận cùng trong muôn vàn sặc sỡ hoa nở, nhìn thấy hằng hà sa số sự ra đời của các tiên đồng, các con thú, các con bọ, chim, cá và những loài lưỡng thê, như thể từ bên dưới người ta đào vô vàn lỗ vào lòng đất, và từ đấy, từ tối tăm chúng nhao nhác lộ ra ngoài ánh sáng.

Tất cả mọi nơi, mọi cách, mọi khả năng đều đủ để chúng chui ra, không giấu giếm, không xấu hổ, tham lam và khao khát sống, như nước nguồn sủi bọt phụt lên từ lòng đất. Đây là khát vọng ánh sáng vô tận của sự sống tăm tối, và khát vọng linh hồn bướng bỉnh của đất, và từ mơ hồ các loại, các chủng của các thực thể sống trồi lên.

Linh hồn ngắt hoa. Hoa là hình ảnh duy nhất trên trái đất để linh hồn nhận ra bản thân nó. Rễ của ta nằm trong bóng tối, và ta lớn lên về phía ánh sáng. Và khi ta ngắt hoa, bó thành bó hoặc kết thành vòng, gài lên khuy áo hoặc cài lên mũ, ta làm ta nở hoa, ta như một bông hoa. Hương thơm, màu sắc giúp ta sống trải qua phép mầu nhiệm không thể hiểu nổi của sự huyền bí. Bởi vì linh hồn có hương thơm, Heracleitos nói: các linh hồn phi vật chất nhận ra nhau ở thế giới bên kia từ mùi hương của chúng - hai psuchai osmontai kat'Haidén.

Cái gì là bản chất của hoa? Tôi không biết và có lẽ không bao giờ biết. Nhưng khi ngắt hoa, tôi biết, tôi biến thành hoa, và như vậy tựa hồ như linh hồn tôi hút thân xác tôi, để tôi trở thành mùi hương và cái đẹp phi vật chất, như Anima, và điều này chỉ duy nhất một đóa hoa tím gài lên khuy áo cũng đủ chứng minh.

Ngắt hoa chỉ có nghĩa chừng này: nở hoa; và ngần này: đi qua một cánh cổng bước vào xa xôi. Khi tôi ngắt bông hoa, tôi bước lên đi qua cây cầu huyền bí. Đi đâu? Tôi không biết.

Nhưng tôi biết, tôi đang dự phần vào sự tuyệt diệu không thể nào diễn tả nổi, và tôi mở tôi về hướng bí ẩn đến tận giờ đây của sự sống.

 


Khái niệm về Anima (ẩn nữ) của đàn ông theo Carl Jung

Carl Gustav Jung   (26/7/1875 - 6/6/1961) là một bác sĩ tâm lý học, tâm thần học người Thụy Sĩ. Nổi tiếng với việc thành lậ...